Biển Mân Thái, Đà Nẵng
Luật
vượt biển đến Hồng Kông năm 1982, sau khi cải tạo
tại Tiên Lãnh được sáu năm.
Chuyến đi của anh suông sẻ chỉ mất hai ngày hai
đêm trên biển. Điều trước tiên,
anh đánh điện tín về nhà báo tin cho vợ con biết
anh đã vượt thoát khỏi Việt
Nam an toàn để chị mừng. Anh theo chân những người
tị nạn vào phố Hồng Kông xin
việc làm, anh được một nhà hàng sắp xếp cho anh
rửa chén bát, việc làm cũng
không đến nỗi khổ cực, lương tương đối khá. Mỗi
ngày người ta cho anh mang về trại
thức ăn dư thừa để anh chia cho những người không
tìm được việc làm.. Ở đây anh
cảm thấy thoải mái hơn khi ở quê nhà rất nhiều.
Không ai quan tâm hoặc theo dõi
kẻ khác, không phạm pháp thì không sợ sệt ai.
Trong trại ai cũng thân thiện,
tận tâm chỉ vẽ nhau những điều người khác không
biết. Mọi người chung quanh
thương mến anh vì bản tính hiền lành. Ở Hồng Kông
gần 1 năm thì anh được phái
đoàn Mỹ nhận cho đi định cư.
Thế
nhưng có một điều làm anh thắc mắc mãi, tại sao
một ông thầy chùa đã giúp đỡ
anh tận tình như vậy ? Anh chưa hề quen biết ông.
Anh nhớ lại cái đêm vượt biên
bị Công An phát giác, anh nhảy xuống sông vừa bơi
vừa lặn, trước khi tàu Công
An kẹp sát. Lên bờ vì trời tối anh không biết đây
là nơi nào. Anh lần mò trong
bóng tối chừng ba tiếng đồng hồ vẫn không thấy
đường cái. Bỗng nhiên anh trông
thấy ánh đèn từ xa, anh đi tới, thì ra đây là ngôi
chùa nhỏ. Anh vào chùa gặp
vị sư còn trẻ, Sư hỏi anh cần gì ? Anh tình thật
thưa rằng anh đang lạc đường
và xin được giúp đỡ. Vị Sư đưa anh vào chánh điện
rồi đến thưa với thầy trụ
trì. Thầy trụ trì chừng trên dưới sáu mươi tuổi,
mặc bộ đồ màu lam, nước da
ngăm đen, khuôn mặt hiền từ. Khi nhìn thấy anh
Thầy có vẻ hơi giật mình. Thầy
bảo người Sư trẻ dọn cơm cho anh ăn. Trong lúc nói
chuyện để anh an tâm, Thầy
cho anh biết sẽ không có ai làm phiền hay quấy rối
anh. Anh muốn ở đây bao lâu
cũng được. Thầy đích thân dọn phòng cho anh ngủ.
Anh tự hỏi giữa lúc khó khăn,
gạo châu củi quế, thế mà nhà chùa lại rộng lượng
quá vậy.
Sáng
dậy, anh bước ra phòng rửa mặt thì đã thấy Thầy
ngồi tại bàn ăn đang uống trà.
Thầy mời anh cùng uống trà và nói chuyện. Tuyệt
đối Thầy không hỏi anh về cuộc
sống hiện thời, về gia đình, về nơi ăn chốn ở.
Thầy dặn anh có ai hỏi thì bảo
anh là bà con ở quê ra thăm thầy. Thầy cũng cho
anh biết ngôi chùa nhỏ nghèo
nàn nên ăn uống sơ sài, không biết anh có chịu
được không ? Anh chắp tay cám ơn
Thầy và nói “Được Thầy bảo bọc, chuyện ăn uống
không thành vấn đề, tất cả đều
tốt với tôi. Xin Thầy đừng bận tâm”. Khi còn ở
nhà, anh và vợ con bữa đói bữa
no, làm gì được như thế nầy. Trong những ngày ở
chùa, Thầy ít khi gặp anh, ít
nói chuyện với nhau ngoại trừ vào bữa ăn. Không
hiểu sao Thầy cố giữ anh lại,
mà không cho biết lý do. Chừng mười ngày sau, khi
ăn cơm chiều xong, Thầy bảo
anh ngồi lại để Thầy nói chuyện. Chỉ còn lại hai
người đối diện nhau, Thầy nói
với anh :
-
“Khi anh bước chân vào chùa nầy, tôi đã biết anh
là người trốn thoát Công An
lùng bắt vì tội vượt biên. Ở đây tôi đã gặp vài
trường hợp giống anh và tôi đã
che chở nên họ về nhà an toàn. Như anh biết chùa
là nơi mở rộng vòng tay giúp
đỡ cho những người sa cơ thất thế, chúng tôi làm
hết sức mình trong điều kiện
cho phép. Hơn nữa vượt biên theo tôi không phải là
cái tội, họ chỉ trốn thoát
chế độ không phù hợp với họ, không chống cự, không
phản đối, thì không thể bảo
họ mang tội. Trường hợp của anh khác với những
người kia, khác như thế nào sau
nầy anh sẽ rõ. Đêm nay có một chuyến vượt biên uy
tín mà tôi tin tưởng, tôi
muốn gửi anh đi trong chuyến nầy, mười một giờ sẽ
có người tới dẫn anh đi. Tôi
đã chuẩn bị sẵn cho anh mọi thứ, gồm có hai bộ
quần áo để anh thay đổi khi tới
nơi, và một lượng vàng cho anh tiêu dùng trong
thời gian chờ định cư đến nước
thứ ba.”
Anh
trố mắt nhìn Thầy mà không nói nên lời, anh đi từ
ngạc nhiên nầy đến ngạc nhiên
khác. Không biết lý do gì mà Thầy tận tình giúp đỡ
anh như vậy. Thầy bảo anh về
phòng nằm nghỉ, chờ đến giờ có người tới đưa đi.
Thầy không cho anh nói một lời
nào dù là lời cám ơn.. Thầy lên chánh điện tụng
kinh. Anh nằm suy nghĩ mãi về sự
giúp dỡ nầy của Thầy. Một lượng vàng là một tài
sản không nhỏ vào thời điểm đó.
Thế mà Thầy lại biếu anh, chưa kể Thầy còn phải
đóng tiền cho chủ ghe để được
đi, chứ không ai cho đi không. Anh thắc mắc sao
lại có một người tốt như vậy.
Anh hứa với lòng mình, sau khi An cư Lạc nghiệp ở
xứ người, anh trở về thăm
thầy, anh hỏi thầy lý do tại sao thầy đã giúp đỡ
anh. Anh nghĩ sẽ hoàn trả lại
số vàng bằng gấp bao nhiêu lần mà Thầy đã chi phí
cho anh. Thầy nói chùa đã
từng che chở cho những người vượt biên bị bể, đã
đưa họ về nhà, đó là một việc
làm tốt, một công đức cao cả mà chỉ có Bồ Tát mới
hành xử như vậy. Vì biết bao
nhiêu hệ lụy sẽ gây rắc rối cho chùa và cho Thầy
nếu chính quyền biết được. Ấy
vậy mà Thầy chẳng sợ gì. Niềm tin nào đã làm cho
Thầy hành động một cách liều
lĩnh như thế. Sống giữa một xã hội mà người dân
chỉ còn cách trốn ra nước ngoài
mới yên thân, thì còn sợ chi chuyện bắt bớ. Tuy
nhiên ở trường hợp của Thầy lại
khác, Thầy đứng ngoài mọi liên hệ với những người
chạy trốn, mà lại dang tay ra
đỡ cho họ khỏi bị tù tội. Còn hoàn cảnh của anh
được Thầy che chở rồi lại tìm
cách đưa đi tiếp. Qua sự việc nầy, Thầy đã tạo cho
anh một niềm tin vào cuộc
đời, vẫn còn có người đầy lòng nhân ái.
Anh
nằm trong phòng không nhắm mắt được. Anh nghe
tiếng tụng kinh của thầy ngoài
chính điện, giọng thầy trầm bổng uy nghi, gieo vào
lòng anh một thức tỉnh và
suy tư. Anh chưa bao giờ nghe được những lời kinh
có uy quyền, thấm đẫm vào
lòng anh một cách sâu xa, xoa dịu những nhọc nhằn
căng thẳng mà anh đã từng
gánh chịu. Anh suy nghĩ, đây mới chính là nơi Phật
hiện diện. Không cần chi
chùa phải lớn, phải nguy nga. Chính ngôi chùa nhỏ
bé nầy, ở một nơi hẻo lánh mà
đã chứa lực đại hùng của Phật, sáng tỏa trong lòng
anh sự từ bi mà bây giờ anh
mới ngộ ra được. Người anh lâng lâng như đang bước
vào một cõi tâm thức, tiếng
kinh như thinh lặng, đôi lúc dìu dặt, đôi lúc
khoan thai, có phải chăng đang
dìu anh ra khơi trong êm ả, một chuyến đi mà anh
không còn mang nỗi sợ. Rồi anh
thiếp đi lúc nào không hay.
Gần
mười một giờ đêm, Thầy vào gọi anh dậy. Thầy trao
cho anh cái bọc nylon chứa
hai bộ quần áo và một lượng vàng. Thầy bảo anh cẩn
thận cất vàng vào túi quần
sau cài nút lại. Trong bọc nylon có một lá thư,
Thầy dặn khi lên ghe lớn hãy
đọc. Nếu trường hợp bị Công An phát hiện, bằng mọi
cách phải hủy lá thư trước.
Thầy đứng ngay cửa nhìn anh ra khỏi chùa. Người
dẫn đường đưa anh ra ghe nhỏ
cách đó chừng nửa giờ. Trên ghe có khoảng mười
người, rồi ghe chạy ra sông cái
tấp vào ghe lớn đang chờ sẵn.. Khi leo lên ghe anh
làm rớt bọc Nylon xuống sông
không vớt lên được. Như vậy lá thư và hai bộ áo
quần mất từ đó.
Đúng
như lời Thầy nói, chuyến đi rất an toàn, hai ngày
sau tới Hồng Kông. Anh đổi
lượng vàng ra thành 10 chỉ, để tiêu dùng trong
những ngày sống ở trại tị nạn.
Anh tiện tặn vì không biết chờ đợi đến bao lâu mới
đi định cư ở nước thứ ba.
Anh may mắn được phái đoàn Mỹ phỏng vấn và cho đi
sớm. Một gia đình người Mỹ ở
Oakland California làm sponsor cho anh. Lúc đó
Oakland chưa có người Việt nhiều, thành phố toàn
người Mỹ đen và Mễ. Dần dần
những năm sau người Việt tới định cư và những quán
Café mọc lên ở đường E.14.
Chính ở đây là nơi truyền những tin tức từ Việt
Nam qua, chuyện bàn luận Chính
trị bắt đầu sôi nổi trên bàn Café của những chính
khách không tên tuổi. Đúng,
sai không ai cần biết, có cãi vả với nhau khi bất
đồng, nhưng tất cả đều bỏ lại
bàn, không ai mang trong lòng. Đó là niềm vui duy
nhất của mỗi cuối tuần cho
những người Việt tha hương sinh sống trong Thành
phố. Anh share phòng với một
gia đình Việt Nam , ăn uống anh tự túc nấu lấy,
nên tiết kiệm thêm một ít tiền.
Anh viết thư bảo vợ thỉnh thoảng qua chùa Mân Thái
cúng Phật và thăm Thầy Trụ
Trì. Anh cho chị biết, Thầy là ân nhân của anh và
gia đình, chị phải thay anh
thăm viếng Thầy thường xuyên.
Sau khi có
quốc tịch Hoa Kỳ, anh làm hồ sơ bảo lãnh vợ
con. Anh thu xếp một chuyến về Việt Nam , để trước
hết thăm Thầy, sau đó hỏi về
lý do Thầy đã tận tình giúp anh. Một thắc mắc cứ
canh cánh trong lòng khiến anh
trăn trở mãi. Thầy thường che chở cho những người
vượt biên, nhưng Thầy chưa
bao giờ nói là đã giúp ai phương tiện và vật chất
để họ tiếp tục đi như anh.
Thăm viếng gia đình, bà con hang xóm xong, anh đón
xe đi Mân Thái thăm Thầy.
Chùa vẫn y nguyên như xưa, như những ngày anh sống
dưới sự bảo bọc của Thầy.
Anh gặp vị sư trẻ, vị sư nầy nhận ra anh ngay.
Thầy nhìn anh, đôi mắt Thầy sáng
lên đầy ngạc nhiên và vui mừng. Anh chạy đến ôm
Thầy, anh cảm thấy sung sướng,
nước mắt ràn rụa. Thầy mời anh ngồi trên chiếc bàn
ăn ngày nào. Anh tình thật
thưa với Thầy là lúc hối hả leo lên tàu lớn trong
đêm tối, anh đánh rơi bọc
Nylon có lá thư và hai bộ áo quần Thầy cho, nên
đến bây giờ anh vẫn không biết
trong thư Thầy viết gì. Thầy cười hiền hòa và nói
trong thư căn dặn anh phải
giữ gìn sức khỏe, luôn luôn nghĩ tới vợ con, chứ
không có gì quan trọng. Thế
nhưng anh không nghĩ như vậy, có một điều gì bí
mật mà Thầy chưa tiện nói ra.
Anh ở lại
chùa vài ngày để trò chuyện với Thầy, luôn
tiện anh xin Thầy cho anh quy y. Thầy đồng ý. Thế
là mỗi đêm, khi Thầy tụng
kinh anh cũng chắp tay ngồi phía sau, vừa nghe câu
kinh Thầy tụng vừa thấy lòng
mình lắng xuống, như ngộ ra được một cái gì đó rất
tâm linh mà không thể nào
diễn tả được. Mỗi lần tụng xong câu kinh Thầy gõ
một tiếng chuông, rồi cúi
xuống lạy. Tiếng chuông ngân vang trong đầu anh,
như dẫn dắt anh bước vào sâu
thẳm của cõi siêu hình.. Dạy cho ta những đạo đức
để giữ mình, để sống với tha
nhân. Anh cảm thấy những ngày ở chùa tuy ngắn ngủi
nhưng anh đã học được nhiều
điều quý giá. Một buổi tối sau khi ăn cơm xong,
Thầy và anh ngồi uống trà nói
chuyện. Thầy nhìn thẳng vào mắt anh, rồi từ từ nói
:
- “Chắc anh
thắc mắc trong lòng bấy lâu nay, là tại
sao tôi tận tình giúp anh, tiếp tay làm tròn ước
nguyện mong muốn của anh là
vượt thoát ra khỏi đất nước. Chẳng qua đó là cái
ơn mà tôi phải trả cho anh
trong thời kỳ chinh chiến. Có lần anh đã giúp tôi
mà anh tuyệt nhiên không hay
biết. Bây giờ tôi xin kể đầu dây mối nhợ của câu
chuyện. Anh không còn nhớ,
nhưng với tôi chuyện gặp anh lúc đó tôi không bao
giờ quên được. Trước khi nhắc
lại chuyện cũ, Tôi xin nói về tôi. Tôi có vợ và
hai con, hồi đó gia đình chúng
tôi sống trong vùng mất an ninh. Tôi hoạt động
Cách mạng và làm đến chức Huyện
Ủy Viên. Vợ con tôi chết trên chuyến đò tiếp tế bị
máy bay phát hiện, từ đó tôi
là người không có gia đình. Tôi được cấp trên giao
cho nhiệm vụ hoạt động trong
vùng Hòa Vang và Điện Bàn. Để dễ dàng đi lại, tôi
giả làm một nhà sư mặc áo nâu
sòng, trên vai luôn luôn mang cái bị chuông mõ,
nhưng thực tế trong đó chứa
những tài liệu hoạt động và một khẩu súng ngắn.
Tôi tránh đi lại ban ngày vì sợ
dễ bị phát giác.. Thường di chuyển vào lúc mặt
trời sụp tối và Du kích địa
phương báo trước cho tôi biết đoạn đường nào an
toàn để đi.
Buổi chiều
tôi nhận được lệnh là sáng hôm sau tôi có
một cuộc họp với thượng cấp tại xã Thanh Trường,
huyện Điện Bàn. Tôi và hai cận
vệ yên tâm ra đi, người cận vệ đi đầu bi đau bụng
nên ngồi lại đi cầu, như vậy
tôi trở thành người đi đầu. Đi được một đoạn thì
tôi bị một toán lính Quốc Gia
phát hiện, người đi phía sau tôi núp vào bụi cây
nên thoát được. Tôi được dẫn
vào trình diện ông Trung úy Đại đội trưởng, người
Chỉ huy cuộc hành quân đó.
Tôi nghĩ trong bụng, tôi không thể nào thoát được
lần nầy, thế nào họ cũng xét
người và chiếc bị mang trên vai, đầy tài liệu và
cây súng ngắn trong đó... Dưới
ánh đèn nho nhỏ, ông Trung úy ngước lên nhìn tôi
với khuôn mặt hiền từ, hỏi tôi
một câu cho lấy lệ : “Thầy đi đâu trong đêm tối ?
Thầy có biết vùng nầy nguy
hiểm lắm không ?” Tôi thưa với ông rằng : “Xóm
trên có người mới mất, tôi đến
tụng kinh rồi ra về. Không ngờ trời sụp tối mau
vậy.” Người lính đứng gần hỏi
ông Trung úy có cần xét ông thầy nầy không ? Ông
Trung úy nói khỏi cần, rồi sai
người lính trải Poncho cho thầy ngủ lại, sáng mai
hãy về, chứ đi trong đêm thế
nào cũng bị bắn. Tôi nghĩ lúc đó có người khuất
mặt che chở cho tôi nên họ
không xét người tôi. Sáng hôm sau thức dậy, ông
Trung úy đưa cho tôi một ca
nước trà, rồi tôi lên đường. Suốt trên đoạn đường
đi, tôi suy nghĩ mãi về ông
Trung úy. Điều gì đã làm cho ông cư xử với tôi như
vậy ? Ông có biết rằng trong
đêm đó tôi có thể giết ông rồi bỏ chạy, giữa đêm
khuya tối mịt làm sao bắn
trúng tôi ? Ai đã khiến tôi, ngăn cản tôi không
làm điều đó. Trong chiến tranh
không từ nan bất cứ thủ đoạn nào, giết người không
một chút cắn rứt. Nhưng giữa
anh và tôi, hai kẻ thù gặp nhau ở điểm “lòng nhân
ái”, không biết nó đã tiềm ẩn
trong người tự lúc nào mà khi nó tỉnh dậy lại vào
lúc đúng nhất. Từ đêm đó, tôi
bắt đầu suy nghĩ về tâm linh, chiếc áo nâu sòng
tôi đang mặc, phải có cái duyên
tôi mới khoác nó lên người. Trong những năm cuối
cùng chiến tranh chiếc áo như
đã che chở cho tôi tránh những lằn tên mũi đạn.
Tôi nguyện trong lòng, sau khi
cuộc chiến chấm dứt, thế nào tôi cũng tìm gặp anh.
Ánh mắt và khuôn mặt anh
không làm sao tôi quên được. Anh đã cứu tôi không
những tại mặt trận, mà còn
cứu tôi ra khỏi vũng lầy của sự hận thù. Tôi luôn
luôn âm thầm cầu nguyện cho
anh thoát khỏi mọi tai ương. Cái đêm anh bước vào
chùa, khi anh ngước lên nhìn
tôi, cũng ánh mắt ấy cách đây hơn mười năm giống
hệt nhau. Tôi giật mình, ân
nhân năm xưa bây giờ đã đến, tôi có bổn phận phải
giúp anh, phải đưa anh thoát
khỏi nghịch cảnh mà anh và gia đình gánh chịu. Bây
giờ anh đã hiểu rồi chứ ?
Đây là cơ hội cho tôi trả lại anh món nợ cũ. Điểu
làm tôi suy nghĩ mãi là cơ
duyên nào đưa anh tới đây ? Có phải chăng ơn trên
đã dẫn dắt anh. Trong cuộc
sống thiên hình vạn trạng, rất hiếm có trường hợp
giống nhau. Thế mà chúng ta
lại rơi đúng vào sự trùng hợp nầy một cách bất
ngờ."
Anh sững sờ
nhìn Thầy, một câu chuyện mà anh không hề
nghĩ đến, cho đến bây giờ Thầy nhắc. Đúng là
trường hợp hi hữu, tất cả đều có
sự sắp xếp của ơn trên. Ký ức anh bắt đầu quay về
khoảng không gian mười năm
trước đây :
“Hồi đó đơn
vị anh hành quân ở khu vực Miếu Bông, sát
Quốc lộ 1, giữa đường từ Đà Nẵng vào Vĩnh Điện.
Gần 6 giờ chiều, anh được lệnh
di chuyển vào khu vực xã Hòa Lân gần một con lộ đá
từ Non Nước vào Hội An.
Chính sự di chuyển nầy đánh lạc hướng du kích địa
phương và những liên lạc
viên, vì họ không ngờ đơn vị của anh di chuyển ban
đêm. Ông Huyện ủy viên tưởng
rằng không có lính Quốc gia hành quân, nên ông mới
đi trên lộ trình nầy. Khi
ông bị lính chận lại, ông rất ngạc nhiên tại sao
một cuộc hành quân như vậy mà
du kích không phát giác được. Chỉ huy Đại đội đóng
gần cái miểu, anh treo chiếc
võng bên ngoài, định nằm nghỉ thì người lính gác
dẫn một ông thầy chùa vào
trình diện. Anh ngước nhìn thấy ông thầy chùa cũng
lớn tuổi, con người khắc khổ
tội nghiệp. Anh không nghi ngờ gì cả, bảo ông nghỉ
lại đây cho an toàn rồi ngày
mai về sớm. Đi trong đêm nguy hiểm vì có thể gặp
đơn vị Quốc gia khác đi kích,
lúc đó khó tránh khỏi rắc rối. Đơn giản là như
vậy, chứ anh hoàn toàn không có
ý nghĩ gì khác, hoặc nghi ngờ ông thầy chùa là
Việt Cộng. Sáng hôm sau khi ông
thầy chùa đi rồi, thì anh mới tự hỏi tại sao mình
không lục xét ông thầy, biết
đâu ông là Việt Cộng thì sao ? Giữa thời buổi
chiến tranh bất cứ ai cũng có thể
nghi ngờ. Nghĩ như vậy, nhưng anh không cho lính
chạy theo gọi ông trở lại.
Chuyện nầy anh cũng lãng quên, bây giờ Thầy nhắc
anh mới nhớ lại.”
Anh nhìn
Thầy, nhưng hoàn toàn không còn nhớ khuôn
mặt. Càng nghĩ anh càng cảm thấy sự màu nhiệm của
đức tin, có thể biến đổi được
con người, xoa dịu những vết thương tưởng chừng
như không bao giờ xóa đi được.
Anh lặng người để tâm hồn lắng xuống, nhìn Thầy
như cảm nhận có được một luồng
hùng lực tỏa sáng. Khuôn mặt Thầy hiền từ, ăn nói
chậm rãi, từ tốn. Anh thấy,
Thầy hoàn toàn lột xác.. Thường thường chính trị
viên nào cũng ăn nói lưu loát,
cứng rắn, họ là những người nắm sinh mạng của đơn
vị, đẩy những chiến binh dưới
quyền mình vào chỗ dầu sôi lửa bỏng. Bây giờ lời
Thầy có một hấp lực mang đến
sự an lành cho mọi người.. Ôi, tất cả đều nằm
trong nghiệp số.
- Thưa Thầy,
thế thì lúc nào Thầy mới chính thức bước
vào đường tu hành ?
Thầy nhìn anh cười. Bây giờ anh mới để ý nụ cười của Thầy hiền lành, đúng là một bậc chân tu :
- Sau 30 tháng 4 năm 1975, khi quân Cách mạng hoàn toàn chiếm Miền Nam, cũng vào ngày đó tôi chính thức đi tu. Những bạn bè cũ cùng chiến đấu với tôi rất ngạc nhiên. Lúc được hưởng những sung sướng nhất, giàu sang nhất, tôi lại chọn lấy con đường cực khổ nhất. Tôi trả lại tất cả những chức vụ, đảng viên, những quyền hành v.v... chỉ xin một điều, hãy để cho tôi yên, đừng quấy phá làm phiền tôi. Những ai đến thăm chùa, những ai ngụ trong chùa xin các người đừng gây rắc rối cho họ. Những ngày tôi theo Cách mạng, hy sinh cả vợ con, sự cống hiến của tôi đã đủ. Bây giờ cho tôi yên phận trong tuổi già. Tôi nghĩ chỉ có con đường nầy mới giải thoát được tôi, vợ con tôi dưới suối vàng cũng mĩm cười. Lúc đầu họ không chịu, nhưng tôi quyết liệt quá, họ đành phải chìu ý tôi. Họ bảo tôi lãnh đạo Phật Giáo tỉnh, tôi từ chối. Tôi muốn làm một người tu hành đúng nghĩa nhất. Không lợi dụng chiếc áo cà-sa nữa, vì tôi đã lợi dụng nó quá nhiều trong thời chiến tranh để che đỡ mình.
Thầy nhìn anh cười. Bây giờ anh mới để ý nụ cười của Thầy hiền lành, đúng là một bậc chân tu :
- Sau 30 tháng 4 năm 1975, khi quân Cách mạng hoàn toàn chiếm Miền Nam, cũng vào ngày đó tôi chính thức đi tu. Những bạn bè cũ cùng chiến đấu với tôi rất ngạc nhiên. Lúc được hưởng những sung sướng nhất, giàu sang nhất, tôi lại chọn lấy con đường cực khổ nhất. Tôi trả lại tất cả những chức vụ, đảng viên, những quyền hành v.v... chỉ xin một điều, hãy để cho tôi yên, đừng quấy phá làm phiền tôi. Những ai đến thăm chùa, những ai ngụ trong chùa xin các người đừng gây rắc rối cho họ. Những ngày tôi theo Cách mạng, hy sinh cả vợ con, sự cống hiến của tôi đã đủ. Bây giờ cho tôi yên phận trong tuổi già. Tôi nghĩ chỉ có con đường nầy mới giải thoát được tôi, vợ con tôi dưới suối vàng cũng mĩm cười. Lúc đầu họ không chịu, nhưng tôi quyết liệt quá, họ đành phải chìu ý tôi. Họ bảo tôi lãnh đạo Phật Giáo tỉnh, tôi từ chối. Tôi muốn làm một người tu hành đúng nghĩa nhất. Không lợi dụng chiếc áo cà-sa nữa, vì tôi đã lợi dụng nó quá nhiều trong thời chiến tranh để che đỡ mình.
Lúc đầu khi
về chùa tôi thỉnh một bộ kinh và sắm
chuông mõ, tôi tự trồng trọt để nuôi thân. Dân địa
phương họ biết tôi trước đây
hoạt động cho quân Giải Phóng nên họ rất e dè, ít
người lui tới. Dần dần người
nầy truyền đạt cho người kia về tôi, họ thấy tôi
không nguy hiểm mà trái lại
rất dễ thương. Từ đó chùa có một sinh khí mới,
buổi tối ai rãnh thì đến chùa
tụng kinh với tôi. Đạo hữu họ cũng biết chùa che
chở cho nhiều người trốn thoát
Công An, họ cho đó là việc làm đúng. Công An họ
tin rằng tôi là một đảng viên,
không thể chấp chứa những thành phần phản động.
Nhưng họ không ngờ rằng tôi bây
giờ đã hoàn toàn lột xác, tất cả đều là anh em,
không thù không oán. Chính vì
vậy chùa đã bao che cho những người vượt biển trốn
tại đây.
- Thưa Thầy,
chùa nầy đã có trước đây hay mới làm và
người đệ tử theo Thầy từ lúc nào ?
- Chùa nầy trước đây là chùa hoang, nằm trong vùng oanh kích tự do nên không ai dám lui tới. Làng mạc tiêu điều, dân làng ra Thành phố tỵ nạn tránh bom đạn, chùa không còn ai hương khói. Chỉ có tượng Phật lành lặn, còn tất cả đều bị đạn bắn phá. Chính điều nầy cũng làm cho tôi bao nhiêu đêm suy nghĩ, tượng Phật không hề hấn gì cũng lạ thật. Những năm cuối cuộc chiến, tôi ngủ dưới bệ tượng Phật, tôi cảm thấy an tâm, hình như có một cái gì đó che chở cho tôi. Tôi nguyện trong lòng, sau khi đất nước hòa bình, tôi sẽ về đây tu bổ lại ngôi chùa và sinh sống. Nếu gặp được phước duyên tôi sẽ đi tu, gia đình vợ con không còn nữa, chẳng còn chỗ nào làm nơi nương tựa. Trong thời chiến tôi lấy nơi đây làm nơi cư ngụ và hoạt động. Sau nầy, như mong ước, tôi tu bổ dần dần trở thành một ngôi chùa tuy không lớn, nhưng đạo hữu đến cũng khá đông. Tôi dự định sang năm đủ tiền, sẽ xây lại lớn hơn, để những người con Phật có nơi khang trang hành lễ trong những ngày Vía lớn. Người Thầy trẻ phụ giúp tôi trong chùa, lúc thầy đến mới 10 tuổi, cha mẹ thất lạc lúc chạy loạn. Thấy tội nghiệp tôi nuôi nấng cho ăn học. Bây giờ thầy đã là Kỹ sư công nghệ. Tôi bảo thầy có thể ra đời lấy vợ, vì chuyện ở chùa chỉ là hoàn cảnh bức bách lúc đó. Thầy bảo là con quyết tâm tu hành theo chân sư phụ. Thôi biết đâu cũng là cơ duyên. Tôi không bao giờ sai bảo thầy nhỏ những gì mà tôi có thể làm được, thầy thấy tôi làm việc nầy thì thầy làm việc khác, từ xưa đến giờ trở thành một nề nếp. Cách đây hai năm cha mẹ của thầy trẻ từ nước ngoài về tìm thầy. Khi họ lạc nhau thầy đã 10 tuổi nên thầy dễ dàng nhận ra cha mẹ. Cha mẹ sẽ bảo lãnh cho thầy đi, nhưng thầy vẫn chưa quyết định. Tôi có khuyên thầy nên đi, dù sao tình ruột thịt cũng cần thiết hơn. Tôi nghĩ thế nào thầy trẻ cũng rời khỏi chùa, nên tôi đang tìm một người sau nầy sẽ thay tôi. Cái khó không phải là không có người, mà người thay thế tôi có được lòng bà con, có siêng năng tu tập, có đủ nghị lực để quán xuyến ngôi chùa không. Và điều quan trọng nhất là đừng để chùa biến thành công cụ phụng sự Chính trị. Nhiều đêm suy nghĩ nhưng chưa tìm được người như vậy. Thật tình thì có lo lắng cũng không được. Thôi thì cứ để mọi chuyện từ từ, người nào có Phật duyên tự nhiên sẽ đến.
- Chùa nầy trước đây là chùa hoang, nằm trong vùng oanh kích tự do nên không ai dám lui tới. Làng mạc tiêu điều, dân làng ra Thành phố tỵ nạn tránh bom đạn, chùa không còn ai hương khói. Chỉ có tượng Phật lành lặn, còn tất cả đều bị đạn bắn phá. Chính điều nầy cũng làm cho tôi bao nhiêu đêm suy nghĩ, tượng Phật không hề hấn gì cũng lạ thật. Những năm cuối cuộc chiến, tôi ngủ dưới bệ tượng Phật, tôi cảm thấy an tâm, hình như có một cái gì đó che chở cho tôi. Tôi nguyện trong lòng, sau khi đất nước hòa bình, tôi sẽ về đây tu bổ lại ngôi chùa và sinh sống. Nếu gặp được phước duyên tôi sẽ đi tu, gia đình vợ con không còn nữa, chẳng còn chỗ nào làm nơi nương tựa. Trong thời chiến tôi lấy nơi đây làm nơi cư ngụ và hoạt động. Sau nầy, như mong ước, tôi tu bổ dần dần trở thành một ngôi chùa tuy không lớn, nhưng đạo hữu đến cũng khá đông. Tôi dự định sang năm đủ tiền, sẽ xây lại lớn hơn, để những người con Phật có nơi khang trang hành lễ trong những ngày Vía lớn. Người Thầy trẻ phụ giúp tôi trong chùa, lúc thầy đến mới 10 tuổi, cha mẹ thất lạc lúc chạy loạn. Thấy tội nghiệp tôi nuôi nấng cho ăn học. Bây giờ thầy đã là Kỹ sư công nghệ. Tôi bảo thầy có thể ra đời lấy vợ, vì chuyện ở chùa chỉ là hoàn cảnh bức bách lúc đó. Thầy bảo là con quyết tâm tu hành theo chân sư phụ. Thôi biết đâu cũng là cơ duyên. Tôi không bao giờ sai bảo thầy nhỏ những gì mà tôi có thể làm được, thầy thấy tôi làm việc nầy thì thầy làm việc khác, từ xưa đến giờ trở thành một nề nếp. Cách đây hai năm cha mẹ của thầy trẻ từ nước ngoài về tìm thầy. Khi họ lạc nhau thầy đã 10 tuổi nên thầy dễ dàng nhận ra cha mẹ. Cha mẹ sẽ bảo lãnh cho thầy đi, nhưng thầy vẫn chưa quyết định. Tôi có khuyên thầy nên đi, dù sao tình ruột thịt cũng cần thiết hơn. Tôi nghĩ thế nào thầy trẻ cũng rời khỏi chùa, nên tôi đang tìm một người sau nầy sẽ thay tôi. Cái khó không phải là không có người, mà người thay thế tôi có được lòng bà con, có siêng năng tu tập, có đủ nghị lực để quán xuyến ngôi chùa không. Và điều quan trọng nhất là đừng để chùa biến thành công cụ phụng sự Chính trị. Nhiều đêm suy nghĩ nhưng chưa tìm được người như vậy. Thật tình thì có lo lắng cũng không được. Thôi thì cứ để mọi chuyện từ từ, người nào có Phật duyên tự nhiên sẽ đến.
Bây giờ tôi
già rồi, những việc nặng nhọc không làm
được, người đệ tử của tôi quán xuyến hết. Hơn nữa
đạo hữu cũng khá nhiều, mỗi
ngày có vài người đến chùa làm công quả, nên tôi
có thì giờ nghỉ ngơi, chỉ lo
Phật sự. Tôi tự tu hành, học trong kinh sách của
Phật dạy. Phần nhiều kinh sách
viết bằng chữ Hán nên đã gây cho tôi khó khăn lúc
ban đầu.
Mặc dù Thầy không đi tu từ nhỏ, nhưng quyết tâm cố gắng của Thầy, kiên trì học hỏi của Thầy, đã tạo cho Thầy một con người thông hiểu giáo lý nhà Phật, có một kiến thức rộng. Thầy không có một vị sư đỡ đầu, trong Phật Giáo gọi người nầy là Thầy Bổn Sư, nên khi gặp những rắc rối liên quan đến sự tu hành, Thầy tìm đến những cao tăng xin chỉ dạy. Mỗi tháng hai lần, ngày mồng Một và ngày Rằm, Thầy thuyết giảng để đạo hữu hiểu những điều Phật dạy, để sửa mình, để tu thân. Chính quyền tại đây biết rõ về Thầy nên không ai đến quấy rầy. Vì vậy Thầy yên tâm tu hành. Từ khi chính thức bước vào cửa chùa, Thầy không quan tâm đến sự việc bên ngoài. Tiếng tăm của Thầy dần dần được những Phật tử quanh vùng biết đến và từ đó sinh hoạt Phật sự trong chùa trở nên nhộn nhịp hơn.. Có người đề nghị với Thầy nên trùng tu lại ngôi chùa cho phù hợp với số đạo hữu ngày càng gia tăng. Thầy nhận biết điều nầy, nhưng Thầy không dám kêu gọi đóng góp. Thầy cố tiện tặn để dành nhưng vẫn chưa đủ tiền thực hiện.
Một buổi sáng trong lúc uống trà, anh đặt một bọc tiền trên cái khay nhỏ, rồi thưa với Thầy :
- Thưa Thầy, đây là số tiền con dành dụm từ lâu, con hứa khi về quê nhà con sẽ nhờ Thầy dùng nó để làm việc gì mà Thầy cảm thấy cần thiết phải làm. Con không nghĩ là trả lại cái ơn mà Thầy đã giúp, vì ơn nầy to lớn quá con không trả nỗi. Con thấy Chùa hư hại quá nhiều, Thầy cho con góp một tay với Thầy xây dựng lại tốt hơn. Nếu có thiếu hụt trong lúc trùng tu, con sẽ gửi về thêm để Thầy trang trải.
Thầy nhìn anh, Thầy cảm thấy như anh trả lại món nợ trước đây Thầy đã giúp anh vượt biên, nhưng khi nghe anh trình bày thành thật. Thầy trầm tư, đắn đo có nên nhận của anh hay không ? Cuối cùng Thầy quyết định :
- Lòng tốt của anh Thầy ghi nhận. Tuy chùa cũng rất cần, nhưng nhận số tiền nầy của anh Thầy cảm thấy áy náy quá. Thôi thì thay mặt chùa, Thầy cám ơn anh. Thầy sẽ nhờ người vẽ kiểu rồi từ từ thực hiện theo đó. Làm cho đến khi nào hết tiền thì ngưng, có tiền làm tiếp. Ngày xưa các vị sư tổ xây chùa từ đời nầy qua đời khác, không có ai xây chùa chỉ một đời. Lấy kinh nghiệm nầy, Thầy sẽ thực hiện cho đến khi nào Thầy không còn khả năng.
Thầy và anh bàn nhiều chuyện, trong đó để tiết kiệm tiền bạc, Thầy định làm một lò nung gạch, đào đất trước sân chùa để làm gạch. Cái hố lấy đất sau nầy sẽ trồng sen, trở thành một hồ sen. Thấy những dự tính của Thầy hợp lý, anh cũng vui thích.
Mặc dù Thầy không đi tu từ nhỏ, nhưng quyết tâm cố gắng của Thầy, kiên trì học hỏi của Thầy, đã tạo cho Thầy một con người thông hiểu giáo lý nhà Phật, có một kiến thức rộng. Thầy không có một vị sư đỡ đầu, trong Phật Giáo gọi người nầy là Thầy Bổn Sư, nên khi gặp những rắc rối liên quan đến sự tu hành, Thầy tìm đến những cao tăng xin chỉ dạy. Mỗi tháng hai lần, ngày mồng Một và ngày Rằm, Thầy thuyết giảng để đạo hữu hiểu những điều Phật dạy, để sửa mình, để tu thân. Chính quyền tại đây biết rõ về Thầy nên không ai đến quấy rầy. Vì vậy Thầy yên tâm tu hành. Từ khi chính thức bước vào cửa chùa, Thầy không quan tâm đến sự việc bên ngoài. Tiếng tăm của Thầy dần dần được những Phật tử quanh vùng biết đến và từ đó sinh hoạt Phật sự trong chùa trở nên nhộn nhịp hơn.. Có người đề nghị với Thầy nên trùng tu lại ngôi chùa cho phù hợp với số đạo hữu ngày càng gia tăng. Thầy nhận biết điều nầy, nhưng Thầy không dám kêu gọi đóng góp. Thầy cố tiện tặn để dành nhưng vẫn chưa đủ tiền thực hiện.
Một buổi sáng trong lúc uống trà, anh đặt một bọc tiền trên cái khay nhỏ, rồi thưa với Thầy :
- Thưa Thầy, đây là số tiền con dành dụm từ lâu, con hứa khi về quê nhà con sẽ nhờ Thầy dùng nó để làm việc gì mà Thầy cảm thấy cần thiết phải làm. Con không nghĩ là trả lại cái ơn mà Thầy đã giúp, vì ơn nầy to lớn quá con không trả nỗi. Con thấy Chùa hư hại quá nhiều, Thầy cho con góp một tay với Thầy xây dựng lại tốt hơn. Nếu có thiếu hụt trong lúc trùng tu, con sẽ gửi về thêm để Thầy trang trải.
Thầy nhìn anh, Thầy cảm thấy như anh trả lại món nợ trước đây Thầy đã giúp anh vượt biên, nhưng khi nghe anh trình bày thành thật. Thầy trầm tư, đắn đo có nên nhận của anh hay không ? Cuối cùng Thầy quyết định :
- Lòng tốt của anh Thầy ghi nhận. Tuy chùa cũng rất cần, nhưng nhận số tiền nầy của anh Thầy cảm thấy áy náy quá. Thôi thì thay mặt chùa, Thầy cám ơn anh. Thầy sẽ nhờ người vẽ kiểu rồi từ từ thực hiện theo đó. Làm cho đến khi nào hết tiền thì ngưng, có tiền làm tiếp. Ngày xưa các vị sư tổ xây chùa từ đời nầy qua đời khác, không có ai xây chùa chỉ một đời. Lấy kinh nghiệm nầy, Thầy sẽ thực hiện cho đến khi nào Thầy không còn khả năng.
Thầy và anh bàn nhiều chuyện, trong đó để tiết kiệm tiền bạc, Thầy định làm một lò nung gạch, đào đất trước sân chùa để làm gạch. Cái hố lấy đất sau nầy sẽ trồng sen, trở thành một hồ sen. Thấy những dự tính của Thầy hợp lý, anh cũng vui thích.
Trở lại Mỹ,
mỗi đêm anh ngồi trước bàn thờ tụng kinh.
Lúc đầu anh không biết tụng kinh như vậy để làm
gì, sau vài tháng anh ngộ ra
được một điều cái “quả” mà anh nhận được bây giờ,
gia đình yên vui, vợ con sẽ
đoàn tụ, công việc trôi chảy, chính nhờ vào cái
“nhân” mà anh đã gieo. Anh tụng
kinh là nhắc nhở mình phải luôn luôn gìn giữ cái
tâm ngay thẳng. Anh không nghĩ
đến những chuyện cao siêu, chỉ biết đơn giản là tu
thân tích đức. Anh cảm thấy
tâm hồn anh thanh thản hơn, bỏ ra ngoài những hệ
lụy rắc rối không mang tới
niềm vui cho mình, cho mọi người. Câu kinh anh tụng
trở nên nhiệm màu.
Vợ
con anh sau vài năm tới Mỹ theo diện đoàn tụ. Anh
có hỏi vợ về ngôi chùa ở Mân
Thái. Vợ anh cho biết ngôi chùa đã xây xong, không
lớn lắm nhưng khang trang.
Thầy có làm một tấm đá gắn trên tường khắc tên
những người đóng góp xây dựng
nên ngôi chùa như một lời tri ân. Nhiều đêm không
ngủ được anh lại nghĩ tới
ngôi chùa, nghĩ tới Thầy. Ngôi chùa nhỏ nhưng chứa
một tấm lòng quá lớn. Đối
với gia đình anh đây cũng là thánh địa, đã cứu
giúp anh vượt qua những khó
khăn. Trong chiến tranh, chỉ một lần ngẫu nhiên
gặp gỡ mà người Thầy đã giác
ngộ, đã từ bỏ hết những danh vọng, những quyền
thế, xóa sạch những hận thù,
những dĩ vãng đen tối. Chấp nhận một cuộc sống
thanh bần khổ cực. Mấy ai trên
đời nầy làm được như Thầy ? Công đức của Thầy theo
anh, đó là một ngọn Thái-sơn
mấy ai leo tới. Năm nay Thầy đã bát tuần, như một
quyển kinh đã đọc đến những
trang gần cuối. Thầy không có gì phải vướng bận
khi ra đi, chắc Thầy cũng đã
sẵn sàng đi theo Phật. Cuộc đời, mọi vật rồi cũng
sẽ trở thành cát bụi, chỉ còn
chăng là một tấm lòng. Anh viết thư cho quý đạo
hữu hãy báo tin cho anh biết
khi Thầy viên tịch, anh sẽ thu xếp về ngay để tiễn
đưa Thầy lần cuối.
Phan Xuân Sinh
No comments:
Post a Comment