Tuesday, July 23, 2019

Những Sự Thật Đáng Kinh Ngạc Về Tâm Lý Học ! (Amazing Facts about Psychology)

1. Thực phẩm thực sự ngon hơn khi bạn ăn cùng với người mình thích.
 

2. Tình yêu chẳng là gì nếu không có hành động. Tin tưởng chẳng là gì nếu không có bằng chứng và xin lỗi chẳng là gì nếu như không thay đổi.
 


 3. Nhà tù khó trốn thoát nhất là tâm trí của bạn
 


4. Nhẫn cưới nằm trên ngón đeo nhẫn tay trái bởi vì đó là ngón tay duy nhất có một tĩnh mạch kết nối trực tiếp đến trái tim.


5. Không có sự giàu có nào bằng kiến thức, không có sự nghèo nàn nào bằng thiếu hiểu biết.


6. Bất kể bạn cẩn thận lựa chọn từ ngữ của mình bao nhiêu đi nữa, chúng cũng luôn bị bẻ cong bởi những người khác.
 

7. Nếu bạn không thể làm những điều lớn lao, hãy làm những điều nhỏ nhặt theo cách lớn lao.
 

8. Đừng tin mọi thứ bạn nghe. Luôn có 3 mặt trong một câu chuyện: Của bạn, của mọi người và sự thật.
 

9. Bạn không thể mất thứ bạn chưa từng có, bạn không thể giữ thứ không phải của mình và bạn không thể níu giữ thứ đã không muốn ở lại.
 

10. 80% người giữ kín cảm xúc riêng mình bởi vì họ tin sẽ là việc rất khó khăn để người khác thấu hiểu nỗi đau của họ.
 

11. Tất cả mọi người đều trải qua một điều gì đó khiến họ thay đổi và không thể nào quay trở lại con người của mình trước đó.
 
Dịch: Ngọc Hà

Thursday, July 18, 2019

THỨC TỈNH - Phan Xuân Sinh

 Biển Mân Thái, Đà Nẵng
Luật vượt biển đến Hồng Kông năm 1982, sau khi cải tạo tại Tiên Lãnh được sáu năm. Chuyến đi của anh suông sẻ chỉ mất hai ngày hai đêm trên biển. Điều trước tiên, anh đánh điện tín về nhà báo tin cho vợ con biết anh đã vượt thoát khỏi Việt Nam an toàn để chị mừng. Anh theo chân những người tị nạn vào phố Hồng Kông xin việc làm, anh được một nhà hàng sắp xếp cho anh rửa chén bát, việc làm cũng không đến nỗi khổ cực, lương tương đối khá. Mỗi ngày người ta cho anh mang về trại thức ăn dư thừa để anh chia cho những người không tìm được việc làm.. Ở đây anh cảm thấy thoải mái hơn khi ở quê nhà rất nhiều. Không ai quan tâm hoặc theo dõi kẻ khác, không phạm pháp thì không sợ sệt ai. Trong trại ai cũng thân thiện, tận tâm chỉ vẽ nhau những điều người khác không biết. Mọi người chung quanh thương mến anh vì bản tính hiền lành. Ở Hồng Kông gần 1 năm thì anh được phái đoàn Mỹ nhận cho đi định cư.
Thế nhưng có một điều làm anh thắc mắc mãi, tại sao một ông thầy chùa đã giúp đỡ anh tận tình như vậy ? Anh chưa hề quen biết ông. Anh nhớ lại cái đêm vượt biên bị Công An phát giác, anh nhảy xuống sông vừa bơi vừa lặn, trước khi tàu Công An kẹp sát. Lên bờ vì trời tối anh không biết đây là nơi nào. Anh lần mò trong bóng tối chừng ba tiếng đồng hồ vẫn không thấy đường cái. Bỗng nhiên anh trông thấy ánh đèn từ xa, anh đi tới, thì ra đây là ngôi chùa nhỏ. Anh vào chùa gặp vị sư còn trẻ, Sư hỏi anh cần gì ? Anh tình thật thưa rằng anh đang lạc đường và xin được giúp đỡ. Vị Sư đưa anh vào chánh điện rồi đến thưa với thầy trụ trì. Thầy trụ trì chừng trên dưới sáu mươi tuổi, mặc bộ đồ màu lam, nước da ngăm đen, khuôn mặt hiền từ. Khi nhìn thấy anh Thầy có vẻ hơi giật mình. Thầy bảo người Sư trẻ dọn cơm cho anh ăn. Trong lúc nói chuyện để anh an tâm, Thầy cho anh biết sẽ không có ai làm phiền hay quấy rối anh. Anh muốn ở đây bao lâu cũng được. Thầy đích thân dọn phòng cho anh ngủ. Anh tự hỏi giữa lúc khó khăn, gạo châu củi quế, thế mà nhà chùa lại rộng lượng quá vậy.
Sáng dậy, anh bước ra phòng rửa mặt thì đã thấy Thầy ngồi tại bàn ăn đang uống trà. Thầy mời anh cùng uống trà và nói chuyện. Tuyệt đối Thầy không hỏi anh về cuộc sống hiện thời, về gia đình, về nơi ăn chốn ở. Thầy dặn anh có ai hỏi thì bảo anh là bà con ở quê ra thăm thầy. Thầy cũng cho anh biết ngôi chùa nhỏ nghèo nàn nên ăn uống sơ sài, không biết anh có chịu được không ? Anh chắp tay cám ơn Thầy và nói “Được Thầy bảo bọc, chuyện ăn uống không thành vấn đề, tất cả đều tốt với tôi. Xin Thầy đừng bận tâm”. Khi còn ở nhà, anh và vợ con bữa đói bữa no, làm gì được như thế nầy. Trong những ngày ở chùa, Thầy ít khi gặp anh, ít nói chuyện với nhau ngoại trừ vào bữa ăn. Không hiểu sao Thầy cố giữ anh lại, mà không cho biết lý do. Chừng mười ngày sau, khi ăn cơm chiều xong, Thầy bảo anh ngồi lại để Thầy nói chuyện. Chỉ còn lại hai người đối diện nhau, Thầy nói với anh :
- “Khi anh bước chân vào chùa nầy, tôi đã biết anh là người trốn thoát Công An lùng bắt vì tội vượt biên. Ở đây tôi đã gặp vài trường hợp giống anh và tôi đã che chở nên họ về nhà an toàn. Như anh biết chùa là nơi mở rộng vòng tay giúp đỡ cho những người sa cơ thất thế, chúng tôi làm hết sức mình trong điều kiện cho phép. Hơn nữa vượt biên theo tôi không phải là cái tội, họ chỉ trốn thoát chế độ không phù hợp với họ, không chống cự, không phản đối, thì không thể bảo họ mang tội. Trường hợp của anh khác với những người kia, khác như thế nào sau nầy anh sẽ rõ. Đêm nay có một chuyến vượt biên uy tín mà tôi tin tưởng, tôi muốn gửi anh đi trong chuyến nầy, mười một giờ sẽ có người tới dẫn anh đi. Tôi đã chuẩn bị sẵn cho anh mọi thứ, gồm có hai bộ quần áo để anh thay đổi khi tới nơi, và một lượng vàng cho anh tiêu dùng trong thời gian chờ định cư đến nước thứ ba.”
Anh trố mắt nhìn Thầy mà không nói nên lời, anh đi từ ngạc nhiên nầy đến ngạc nhiên khác. Không biết lý do gì mà Thầy tận tình giúp đỡ anh như vậy. Thầy bảo anh về phòng nằm nghỉ, chờ đến giờ có người tới đưa đi. Thầy không cho anh nói một lời nào dù là lời cám ơn.. Thầy lên chánh điện tụng kinh. Anh nằm suy nghĩ mãi về sự giúp dỡ nầy của Thầy. Một lượng vàng là một tài sản không nhỏ vào thời điểm đó. Thế mà Thầy lại biếu anh, chưa kể Thầy còn phải đóng tiền cho chủ ghe để được đi, chứ không ai cho đi không. Anh thắc mắc sao lại có một người tốt như vậy. Anh hứa với lòng mình, sau khi An cư Lạc nghiệp ở xứ người, anh trở về thăm thầy, anh hỏi thầy lý do tại sao thầy đã giúp đỡ anh. Anh nghĩ sẽ hoàn trả lại số vàng bằng gấp bao nhiêu lần mà Thầy đã chi phí cho anh. Thầy nói chùa đã từng che chở cho những người vượt biên bị bể, đã đưa họ về nhà, đó là một việc làm tốt, một công đức cao cả mà chỉ có Bồ Tát mới hành xử như vậy. Vì biết bao nhiêu hệ lụy sẽ gây rắc rối cho chùa và cho Thầy nếu chính quyền biết được. Ấy vậy mà Thầy chẳng sợ gì. Niềm tin nào đã làm cho Thầy hành động một cách liều lĩnh như thế. Sống giữa một xã hội mà người dân chỉ còn cách trốn ra nước ngoài mới yên thân, thì còn sợ chi chuyện bắt bớ. Tuy nhiên ở trường hợp của Thầy lại khác, Thầy đứng ngoài mọi liên hệ với những người chạy trốn, mà lại dang tay ra đỡ cho họ khỏi bị tù tội. Còn hoàn cảnh của anh được Thầy che chở rồi lại tìm cách đưa đi tiếp. Qua sự việc nầy, Thầy đã tạo cho anh một niềm tin vào cuộc đời, vẫn còn có người đầy lòng nhân ái.
Anh nằm trong phòng không nhắm mắt được. Anh nghe tiếng tụng kinh của thầy ngoài chính điện, giọng thầy trầm bổng uy nghi, gieo vào lòng anh một thức tỉnh và suy tư. Anh chưa bao giờ nghe được những lời kinh có uy quyền, thấm đẫm vào lòng anh một cách sâu xa, xoa dịu những nhọc nhằn căng thẳng mà anh đã từng gánh chịu. Anh suy nghĩ, đây mới chính là nơi Phật hiện diện. Không cần chi chùa phải lớn, phải nguy nga. Chính ngôi chùa nhỏ bé nầy, ở một nơi hẻo lánh mà đã chứa lực đại hùng của Phật, sáng tỏa trong lòng anh sự từ bi mà bây giờ anh mới ngộ ra được. Người anh lâng lâng như đang bước vào một cõi tâm thức, tiếng kinh như thinh lặng, đôi lúc dìu dặt, đôi lúc khoan thai, có phải chăng đang dìu anh ra khơi trong êm ả, một chuyến đi mà anh không còn mang nỗi sợ. Rồi anh thiếp đi lúc nào không hay.
Gần mười một giờ đêm, Thầy vào gọi anh dậy. Thầy trao cho anh cái bọc nylon chứa hai bộ quần áo và một lượng vàng. Thầy bảo anh cẩn thận cất vàng vào túi quần sau cài nút lại. Trong bọc nylon có một lá thư, Thầy dặn khi lên ghe lớn hãy đọc. Nếu trường hợp bị Công An phát hiện, bằng mọi cách phải hủy lá thư trước. Thầy đứng ngay cửa nhìn anh ra khỏi chùa. Người dẫn đường đưa anh ra ghe nhỏ cách đó chừng nửa giờ. Trên ghe có khoảng mười người, rồi ghe chạy ra sông cái tấp vào ghe lớn đang chờ sẵn.. Khi leo lên ghe anh làm rớt bọc Nylon xuống sông không vớt lên được. Như vậy lá thư và hai bộ áo quần mất từ đó.
Đúng như lời Thầy nói, chuyến đi rất an toàn, hai ngày sau tới Hồng Kông. Anh đổi lượng vàng ra thành 10 chỉ, để tiêu dùng trong những ngày sống ở trại tị nạn. Anh tiện tặn vì không biết chờ đợi đến bao lâu mới đi định cư ở nước thứ ba. Anh may mắn được phái đoàn Mỹ phỏng vấn và cho đi sớm. Một gia đình người Mỹ ở Oakland California làm sponsor cho anh. Lúc đó Oakland chưa có người Việt nhiều, thành phố toàn người Mỹ đen và Mễ. Dần dần những năm sau người Việt tới định cư và những quán Café mọc lên ở đường E.14. Chính ở đây là nơi truyền những tin tức từ Việt Nam qua, chuyện bàn luận Chính trị bắt đầu sôi nổi trên bàn Café của những chính khách không tên tuổi. Đúng, sai không ai cần biết, có cãi vả với nhau khi bất đồng, nhưng tất cả đều bỏ lại bàn, không ai mang trong lòng. Đó là niềm vui duy nhất của mỗi cuối tuần cho những người Việt tha hương sinh sống trong Thành phố. Anh share phòng với một gia đình Việt Nam , ăn uống anh tự túc nấu lấy, nên tiết kiệm thêm một ít tiền. Anh viết thư bảo vợ thỉnh thoảng qua chùa Mân Thái cúng Phật và thăm Thầy Trụ Trì. Anh cho chị biết, Thầy là ân nhân của anh và gia đình, chị phải thay anh thăm viếng Thầy thường xuyên.
Sau khi có quốc tịch Hoa Kỳ, anh làm hồ sơ bảo lãnh vợ con. Anh thu xếp một chuyến về Việt Nam , để trước hết thăm Thầy, sau đó hỏi về lý do Thầy đã tận tình giúp anh. Một thắc mắc cứ canh cánh trong lòng khiến anh trăn trở mãi. Thầy thường che chở cho những người vượt biên, nhưng Thầy chưa bao giờ nói là đã giúp ai phương tiện và vật chất để họ tiếp tục đi như anh. Thăm viếng gia đình, bà con hang xóm xong, anh đón xe đi Mân Thái thăm Thầy. Chùa vẫn y nguyên như xưa, như những ngày anh sống dưới sự bảo bọc của Thầy. Anh gặp vị sư trẻ, vị sư nầy nhận ra anh ngay. Thầy nhìn anh, đôi mắt Thầy sáng lên đầy ngạc nhiên và vui mừng. Anh chạy đến ôm Thầy, anh cảm thấy sung sướng, nước mắt ràn rụa. Thầy mời anh ngồi trên chiếc bàn ăn ngày nào. Anh tình thật thưa với Thầy là lúc hối hả leo lên tàu lớn trong đêm tối, anh đánh rơi bọc Nylon có lá thư và hai bộ áo quần Thầy cho, nên đến bây giờ anh vẫn không biết trong thư Thầy viết gì. Thầy cười hiền hòa và nói trong thư căn dặn anh phải giữ gìn sức khỏe, luôn luôn nghĩ tới vợ con, chứ không có gì quan trọng. Thế nhưng anh không nghĩ như vậy, có một điều gì bí mật mà Thầy chưa tiện nói ra.
Anh ở lại chùa vài ngày để trò chuyện với Thầy, luôn tiện anh xin Thầy cho anh quy y. Thầy đồng ý. Thế là mỗi đêm, khi Thầy tụng kinh anh cũng chắp tay ngồi phía sau, vừa nghe câu kinh Thầy tụng vừa thấy lòng mình lắng xuống, như ngộ ra được một cái gì đó rất tâm linh mà không thể nào diễn tả được. Mỗi lần tụng xong câu kinh Thầy gõ một tiếng chuông, rồi cúi xuống lạy. Tiếng chuông ngân vang trong đầu anh, như dẫn dắt anh bước vào sâu thẳm của cõi siêu hình.. Dạy cho ta những đạo đức để giữ mình, để sống với tha nhân. Anh cảm thấy những ngày ở chùa tuy ngắn ngủi nhưng anh đã học được nhiều điều quý giá. Một buổi tối sau khi ăn cơm xong, Thầy và anh ngồi uống trà nói chuyện. Thầy nhìn thẳng vào mắt anh, rồi từ từ nói :
- “Chắc anh thắc mắc trong lòng bấy lâu nay, là tại sao tôi tận tình giúp anh, tiếp tay làm tròn ước nguyện mong muốn của anh là vượt thoát ra khỏi đất nước. Chẳng qua đó là cái ơn mà tôi phải trả cho anh trong thời kỳ chinh chiến. Có lần anh đã giúp tôi mà anh tuyệt nhiên không hay biết. Bây giờ tôi xin kể đầu dây mối nhợ của câu chuyện. Anh không còn nhớ, nhưng với tôi chuyện gặp anh lúc đó tôi không bao giờ quên được. Trước khi nhắc lại chuyện cũ, Tôi xin nói về tôi. Tôi có vợ và hai con, hồi đó gia đình chúng tôi sống trong vùng mất an ninh. Tôi hoạt động Cách mạng và làm đến chức Huyện Ủy Viên. Vợ con tôi chết trên chuyến đò tiếp tế bị máy bay phát hiện, từ đó tôi là người không có gia đình. Tôi được cấp trên giao cho nhiệm vụ hoạt động trong vùng Hòa Vang và Điện Bàn. Để dễ dàng đi lại, tôi giả làm một nhà sư mặc áo nâu sòng, trên vai luôn luôn mang cái bị chuông mõ, nhưng thực tế trong đó chứa những tài liệu hoạt động và một khẩu súng ngắn. Tôi tránh đi lại ban ngày vì sợ dễ bị phát giác.. Thường di chuyển vào lúc mặt trời sụp tối và Du kích địa phương báo trước cho tôi biết đoạn đường nào an toàn để đi.
Buổi chiều tôi nhận được lệnh là sáng hôm sau tôi có một cuộc họp với thượng cấp tại xã Thanh Trường, huyện Điện Bàn. Tôi và hai cận vệ yên tâm ra đi, người cận vệ đi đầu bi đau bụng nên ngồi lại đi cầu, như vậy tôi trở thành người đi đầu. Đi được một đoạn thì tôi bị một toán lính Quốc Gia phát hiện, người đi phía sau tôi núp vào bụi cây nên thoát được. Tôi được dẫn vào trình diện ông Trung úy Đại đội trưởng, người Chỉ huy cuộc hành quân đó. Tôi nghĩ trong bụng, tôi không thể nào thoát được lần nầy, thế nào họ cũng xét người và chiếc bị mang trên vai, đầy tài liệu và cây súng ngắn trong đó... Dưới ánh đèn nho nhỏ, ông Trung úy ngước lên nhìn tôi với khuôn mặt hiền từ, hỏi tôi một câu cho lấy lệ : “Thầy đi đâu trong đêm tối ? Thầy có biết vùng nầy nguy hiểm lắm không ?” Tôi thưa với ông rằng : “Xóm trên có người mới mất, tôi đến tụng kinh rồi ra về. Không ngờ trời sụp tối mau vậy.” Người lính đứng gần hỏi ông Trung úy có cần xét ông thầy nầy không ? Ông Trung úy nói khỏi cần, rồi sai người lính trải Poncho cho thầy ngủ lại, sáng mai hãy về, chứ đi trong đêm thế nào cũng bị bắn. Tôi nghĩ lúc đó có người khuất mặt che chở cho tôi nên họ không xét người tôi. Sáng hôm sau thức dậy, ông Trung úy đưa cho tôi một ca nước trà, rồi tôi lên đường. Suốt trên đoạn đường đi, tôi suy nghĩ mãi về ông Trung úy. Điều gì đã làm cho ông cư xử với tôi như vậy ? Ông có biết rằng trong đêm đó tôi có thể giết ông rồi bỏ chạy, giữa đêm khuya tối mịt làm sao bắn trúng tôi ? Ai đã khiến tôi, ngăn cản tôi không làm điều đó. Trong chiến tranh không từ nan bất cứ thủ đoạn nào, giết người không một chút cắn rứt. Nhưng giữa anh và tôi, hai kẻ thù gặp nhau ở điểm “lòng nhân ái”, không biết nó đã tiềm ẩn trong người tự lúc nào mà khi nó tỉnh dậy lại vào lúc đúng nhất. Từ đêm đó, tôi bắt đầu suy nghĩ về tâm linh, chiếc áo nâu sòng tôi đang mặc, phải có cái duyên tôi mới khoác nó lên người. Trong những năm cuối cùng chiến tranh chiếc áo như đã che chở cho tôi tránh những lằn tên mũi đạn. Tôi nguyện trong lòng, sau khi cuộc chiến chấm dứt, thế nào tôi cũng tìm gặp anh. Ánh mắt và khuôn mặt anh không làm sao tôi quên được. Anh đã cứu tôi không những tại mặt trận, mà còn cứu tôi ra khỏi vũng lầy của sự hận thù. Tôi luôn luôn âm thầm cầu nguyện cho anh thoát khỏi mọi tai ương. Cái đêm anh bước vào chùa, khi anh ngước lên nhìn tôi, cũng ánh mắt ấy cách đây hơn mười năm giống hệt nhau. Tôi giật mình, ân nhân năm xưa bây giờ đã đến, tôi có bổn phận phải giúp anh, phải đưa anh thoát khỏi nghịch cảnh mà anh và gia đình gánh chịu. Bây giờ anh đã hiểu rồi chứ ? Đây là cơ hội cho tôi trả lại anh món nợ cũ. Điểu làm tôi suy nghĩ mãi là cơ duyên nào đưa anh tới đây ? Có phải chăng ơn trên đã dẫn dắt anh. Trong cuộc sống thiên hình vạn trạng, rất hiếm có trường hợp giống nhau. Thế mà chúng ta lại rơi đúng vào sự trùng hợp nầy một cách bất ngờ."
Anh sững sờ nhìn Thầy, một câu chuyện mà anh không hề nghĩ đến, cho đến bây giờ Thầy nhắc. Đúng là trường hợp hi hữu, tất cả đều có sự sắp xếp của ơn trên. Ký ức anh bắt đầu quay về khoảng không gian mười năm trước đây :
“Hồi đó đơn vị anh hành quân ở khu vực Miếu Bông, sát Quốc lộ 1, giữa đường từ Đà Nẵng vào Vĩnh Điện. Gần 6 giờ chiều, anh được lệnh di chuyển vào khu vực xã Hòa Lân gần một con lộ đá từ Non Nước vào Hội An. Chính sự di chuyển nầy đánh lạc hướng du kích địa phương và những liên lạc viên, vì họ không ngờ đơn vị của anh di chuyển ban đêm. Ông Huyện ủy viên tưởng rằng không có lính Quốc gia hành quân, nên ông mới đi trên lộ trình nầy. Khi ông bị lính chận lại, ông rất ngạc nhiên tại sao một cuộc hành quân như vậy mà du kích không phát giác được. Chỉ huy Đại đội đóng gần cái miểu, anh treo chiếc võng bên ngoài, định nằm nghỉ thì người lính gác dẫn một ông thầy chùa vào trình diện. Anh ngước nhìn thấy ông thầy chùa cũng lớn tuổi, con người khắc khổ tội nghiệp. Anh không nghi ngờ gì cả, bảo ông nghỉ lại đây cho an toàn rồi ngày mai về sớm. Đi trong đêm nguy hiểm vì có thể gặp đơn vị Quốc gia khác đi kích, lúc đó khó tránh khỏi rắc rối. Đơn giản là như vậy, chứ anh hoàn toàn không có ý nghĩ gì khác, hoặc nghi ngờ ông thầy chùa là Việt Cộng. Sáng hôm sau khi ông thầy chùa đi rồi, thì anh mới tự hỏi tại sao mình không lục xét ông thầy, biết đâu ông là Việt Cộng thì sao ? Giữa thời buổi chiến tranh bất cứ ai cũng có thể nghi ngờ. Nghĩ như vậy, nhưng anh không cho lính chạy theo gọi ông trở lại. Chuyện nầy anh cũng lãng quên, bây giờ Thầy nhắc anh mới nhớ lại.”
Anh nhìn Thầy, nhưng hoàn toàn không còn nhớ khuôn mặt. Càng nghĩ anh càng cảm thấy sự màu nhiệm của đức tin, có thể biến đổi được con người, xoa dịu những vết thương tưởng chừng như không bao giờ xóa đi được. Anh lặng người để tâm hồn lắng xuống, nhìn Thầy như cảm nhận có được một luồng hùng lực tỏa sáng. Khuôn mặt Thầy hiền từ, ăn nói chậm rãi, từ tốn. Anh thấy, Thầy hoàn toàn lột xác.. Thường thường chính trị viên nào cũng ăn nói lưu loát, cứng rắn, họ là những người nắm sinh mạng của đơn vị, đẩy những chiến binh dưới quyền mình vào chỗ dầu sôi lửa bỏng. Bây giờ lời Thầy có một hấp lực mang đến sự an lành cho mọi người.. Ôi, tất cả đều nằm trong nghiệp số.
- Thưa Thầy, thế thì lúc nào Thầy mới chính thức bước vào đường tu hành ?
Thầy nhìn anh cười. Bây giờ anh mới để ý nụ cười của Thầy hiền lành, đúng là một bậc chân tu :
- Sau 30 tháng 4 năm 1975, khi quân Cách mạng hoàn toàn chiếm Miền Nam, cũng vào ngày đó tôi chính thức đi tu. Những bạn bè cũ cùng chiến đấu với tôi rất ngạc nhiên. Lúc được hưởng những sung sướng nhất, giàu sang nhất, tôi lại chọn lấy con đường cực khổ nhất. Tôi trả lại tất cả những chức vụ, đảng viên, những quyền hành v.v... chỉ xin một điều, hãy để cho tôi yên, đừng quấy phá làm phiền tôi. Những ai đến thăm chùa, những ai ngụ trong chùa xin các người đừng gây rắc rối cho họ. Những ngày tôi theo Cách mạng, hy sinh cả vợ con, sự cống hiến của tôi đã đủ. Bây giờ cho tôi yên phận trong tuổi già. Tôi nghĩ chỉ có con đường nầy mới giải thoát được tôi, vợ con tôi dưới suối vàng cũng mĩm cười. Lúc đầu họ không chịu, nhưng tôi quyết liệt quá, họ đành phải chìu ý tôi. Họ bảo tôi lãnh đạo Phật Giáo tỉnh, tôi từ chối. Tôi muốn làm một người tu hành đúng nghĩa nhất. Không lợi dụng chiếc áo cà-sa nữa, vì tôi đã lợi dụng nó quá nhiều trong thời chiến tranh để che đỡ mình.
Lúc đầu khi về chùa tôi thỉnh một bộ kinh và sắm chuông mõ, tôi tự trồng trọt để nuôi thân. Dân địa phương họ biết tôi trước đây hoạt động cho quân Giải Phóng nên họ rất e dè, ít người lui tới. Dần dần người nầy truyền đạt cho người kia về tôi, họ thấy tôi không nguy hiểm mà trái lại rất dễ thương. Từ đó chùa có một sinh khí mới, buổi tối ai rãnh thì đến chùa tụng kinh với tôi. Đạo hữu họ cũng biết chùa che chở cho nhiều người trốn thoát Công An, họ cho đó là việc làm đúng. Công An họ tin rằng tôi là một đảng viên, không thể chấp chứa những thành phần phản động. Nhưng họ không ngờ rằng tôi bây giờ đã hoàn toàn lột xác, tất cả đều là anh em, không thù không oán. Chính vì vậy chùa đã bao che cho những người vượt biển trốn tại đây.
- Thưa Thầy, chùa nầy đã có trước đây hay mới làm và người đệ tử theo Thầy từ lúc nào ?
- Chùa nầy trước đây là chùa hoang, nằm trong vùng oanh kích tự do nên không ai dám lui tới. Làng mạc tiêu điều, dân làng ra Thành phố tỵ nạn tránh bom đạn, chùa không còn ai hương khói. Chỉ có tượng Phật lành lặn, còn tất cả đều bị đạn bắn phá. Chính điều nầy cũng làm cho tôi bao nhiêu đêm suy nghĩ, tượng Phật không hề hấn gì cũng lạ thật. Những năm cuối cuộc chiến, tôi ngủ dưới bệ tượng Phật, tôi cảm thấy an tâm, hình như có một cái gì đó che chở cho tôi. Tôi nguyện trong lòng, sau khi đất nước hòa bình, tôi sẽ về đây tu bổ lại ngôi chùa và sinh sống. Nếu gặp được phước duyên tôi sẽ đi tu, gia đình vợ con không còn nữa, chẳng còn chỗ nào làm nơi nương tựa. Trong thời chiến tôi lấy nơi đây làm nơi cư ngụ và hoạt động. Sau nầy, như mong ước, tôi tu bổ dần dần trở thành một ngôi chùa tuy không lớn, nhưng đạo hữu đến cũng khá đông. Tôi dự định sang năm đủ tiền, sẽ xây lại lớn hơn, để những người con Phật có nơi khang trang hành lễ trong những ngày Vía lớn. Người Thầy trẻ phụ giúp tôi trong chùa, lúc thầy đến mới 10 tuổi, cha mẹ thất lạc lúc chạy loạn. Thấy tội nghiệp tôi nuôi nấng cho ăn học. Bây giờ thầy đã là Kỹ sư công nghệ. Tôi bảo thầy có thể ra đời lấy vợ, vì chuyện ở chùa chỉ là hoàn cảnh bức bách lúc đó. Thầy bảo là con quyết tâm tu hành theo chân sư phụ. Thôi biết đâu cũng là cơ duyên. Tôi không bao giờ sai bảo thầy nhỏ những gì mà tôi có thể làm được, thầy thấy tôi làm việc nầy thì thầy làm việc khác, từ xưa đến giờ trở thành một nề nếp. Cách đây hai năm cha mẹ của thầy trẻ từ nước ngoài về tìm thầy. Khi họ lạc nhau thầy đã 10 tuổi nên thầy dễ dàng nhận ra cha mẹ. Cha mẹ sẽ bảo lãnh cho thầy đi, nhưng thầy vẫn chưa quyết định. Tôi có khuyên thầy nên đi, dù sao tình ruột thịt cũng cần thiết hơn. Tôi nghĩ thế nào thầy trẻ cũng rời khỏi chùa, nên tôi đang tìm một người sau nầy sẽ thay tôi. Cái khó không phải là không có người, mà người thay thế tôi có được lòng bà con, có siêng năng tu tập, có đủ nghị lực để quán xuyến ngôi chùa không. Và điều quan trọng nhất là đừng để chùa biến thành công cụ phụng sự Chính trị. Nhiều đêm suy nghĩ nhưng chưa tìm được người như vậy. Thật tình thì có lo lắng cũng không được. Thôi thì cứ để mọi chuyện từ từ, người nào có Phật duyên tự nhiên sẽ đến.
Bây giờ tôi già rồi, những việc nặng nhọc không làm được, người đệ tử của tôi quán xuyến hết. Hơn nữa đạo hữu cũng khá nhiều, mỗi ngày có vài người đến chùa làm công quả, nên tôi có thì giờ nghỉ ngơi, chỉ lo Phật sự. Tôi tự tu hành, học trong kinh sách của Phật dạy. Phần nhiều kinh sách viết bằng chữ Hán nên đã gây cho tôi khó khăn lúc ban đầu.
Mặc dù Thầy không đi tu từ nhỏ, nhưng quyết tâm cố gắng của Thầy, kiên trì học hỏi của Thầy, đã tạo cho Thầy một con người thông hiểu giáo lý nhà Phật, có một kiến thức rộng. Thầy không có một vị sư đỡ đầu, trong Phật Giáo gọi người nầy là Thầy Bổn Sư, nên khi gặp những rắc rối liên quan đến sự tu hành, Thầy tìm đến những cao tăng xin chỉ dạy. Mỗi tháng hai lần, ngày mồng Một và ngày Rằm, Thầy thuyết giảng để đạo hữu hiểu những điều Phật dạy, để sửa mình, để tu thân. Chính quyền tại đây biết rõ về Thầy nên không ai đến quấy rầy. Vì vậy Thầy yên tâm tu hành. Từ khi chính thức bước vào cửa chùa, Thầy không quan tâm đến sự việc bên ngoài. Tiếng tăm của Thầy dần dần được những Phật tử quanh vùng biết đến và từ đó sinh hoạt Phật sự trong chùa trở nên nhộn nhịp hơn.. Có người đề nghị với Thầy nên trùng tu lại ngôi chùa cho phù hợp với số đạo hữu ngày càng gia tăng. Thầy nhận biết điều nầy, nhưng Thầy không dám kêu gọi đóng góp. Thầy cố tiện tặn để dành nhưng vẫn chưa đủ tiền thực hiện.
Một buổi sáng trong lúc uống trà, anh đặt một bọc tiền trên cái khay nhỏ, rồi thưa với Thầy :
- Thưa Thầy, đây là số tiền con dành dụm từ lâu, con hứa khi về quê nhà con sẽ nhờ Thầy dùng nó để làm việc gì mà Thầy cảm thấy cần thiết phải làm. Con không nghĩ là trả lại cái ơn mà Thầy đã giúp, vì ơn nầy to lớn quá con không trả nỗi. Con thấy Chùa hư hại quá nhiều, Thầy cho con góp một tay với Thầy xây dựng lại tốt hơn. Nếu có thiếu hụt trong lúc trùng tu, con sẽ gửi về thêm để Thầy trang trải.
Thầy nhìn anh, Thầy cảm thấy như anh trả lại món nợ trước đây Thầy đã giúp anh vượt biên, nhưng khi nghe anh trình bày thành thật. Thầy trầm tư, đắn đo có nên nhận của anh hay không ? Cuối cùng Thầy quyết định :
- Lòng tốt của anh Thầy ghi nhận. Tuy chùa cũng rất cần, nhưng nhận số tiền nầy của anh Thầy cảm thấy áy náy quá. Thôi thì thay mặt chùa, Thầy cám ơn anh. Thầy sẽ nhờ người vẽ kiểu rồi từ từ thực hiện theo đó. Làm cho đến khi nào hết tiền thì ngưng, có tiền làm tiếp. Ngày xưa các vị sư tổ xây chùa từ đời nầy qua đời khác, không có ai xây chùa chỉ một đời. Lấy kinh nghiệm nầy, Thầy sẽ thực hiện cho đến khi nào Thầy không còn khả năng.
Thầy và anh bàn nhiều chuyện, trong đó để tiết kiệm tiền bạc, Thầy định làm một lò nung gạch, đào đất trước sân chùa để làm gạch. Cái hố lấy đất sau nầy sẽ trồng sen, trở thành một hồ sen. Thấy những dự tính của Thầy hợp lý, anh cũng vui thích.
Trở lại Mỹ, mỗi đêm anh ngồi trước bàn thờ tụng kinh. Lúc đầu anh không biết tụng kinh như vậy để làm gì, sau vài tháng anh ngộ ra được một điều cái “quả” mà anh nhận được bây giờ, gia đình yên vui, vợ con sẽ đoàn tụ, công việc trôi chảy, chính nhờ vào cái “nhân” mà anh đã gieo. Anh tụng kinh là nhắc nhở mình phải luôn luôn gìn giữ cái tâm ngay thẳng. Anh không nghĩ đến những chuyện cao siêu, chỉ biết đơn giản là tu thân tích đức. Anh cảm thấy tâm hồn anh thanh thản hơn, bỏ ra ngoài những hệ lụy rắc rối không mang tới niềm vui cho mình, cho mọi người. Câu kinh anh tụng trở nên nhiệm màu.
Vợ con anh sau vài năm tới Mỹ theo diện đoàn tụ. Anh có hỏi vợ về ngôi chùa ở Mân Thái. Vợ anh cho biết ngôi chùa đã xây xong, không lớn lắm nhưng khang trang. Thầy có làm một tấm đá gắn trên tường khắc tên những người đóng góp xây dựng nên ngôi chùa như một lời tri ân. Nhiều đêm không ngủ được anh lại nghĩ tới ngôi chùa, nghĩ tới Thầy. Ngôi chùa nhỏ nhưng chứa một tấm lòng quá lớn. Đối với gia đình anh đây cũng là thánh địa, đã cứu giúp anh vượt qua những khó khăn. Trong chiến tranh, chỉ một lần ngẫu nhiên gặp gỡ mà người Thầy đã giác ngộ, đã từ bỏ hết những danh vọng, những quyền thế, xóa sạch những hận thù, những dĩ vãng đen tối. Chấp nhận một cuộc sống thanh bần khổ cực. Mấy ai trên đời nầy làm được như Thầy ? Công đức của Thầy theo anh, đó là một ngọn Thái-sơn mấy ai leo tới. Năm nay Thầy đã bát tuần, như một quyển kinh đã đọc đến những trang gần cuối. Thầy không có gì phải vướng bận khi ra đi, chắc Thầy cũng đã sẵn sàng đi theo Phật. Cuộc đời, mọi vật rồi cũng sẽ trở thành cát bụi, chỉ còn chăng là một tấm lòng. Anh viết thư cho quý đạo hữu hãy báo tin cho anh biết khi Thầy viên tịch, anh sẽ thu xếp về ngay để tiễn đưa Thầy lần cuối.
Phan Xuân Sinh

Tuesday, July 16, 2019

Mắt Biếc - Nguyễn Nhật Ánh - Sĩ Phú - Tuấn Ngọc


Mắt biếc là một tác phẩm của tác giả Nguyễn Nhật Ánh trong loạt truyện viết về tình yêu của thanh thiếu niên của tác giả này cùng với Thằng quỷ nhỏ, Cô gái đến từ hôm qua... Đây được xem là một trong những tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Nhật Ánh, từng được dịch giả Kato Sakae dịch để giới thiệu với độc giả Nhật Bản.[1]

Nội dung

Mắt biếc kể về cuộc đời của nhân vật chính tên Ngạn. Ngạn sinh ra và lớn lên ở một ngôi làng tên là làng Đo Đo (thuộc xã Bình Quế - huyện Thăng Bình - tỉnh Quảng Nam - cũng là nguyên quán của tác giả). Lớn lên cùng với Ngạn là cô bạn hàng xóm có đôi mắt tuyệt đẹp tên là Hà Lan. Tuổi thơ của Ngạn và Hà Lan gắn bó với bao nhiêu kỷ niệm cùng đồi sim, đánh trống trường... Tình bạn trẻ thơ dần dần biến thành tình yêu thầm lặng của Ngạn dành cho Hà Lan. Đến khi lớn hơn một chút, cả hai phải rời làng ra thành phố để tiếp tục học. Khi tấm lòng của Ngạn luôn hướng về Hà Lan và về làng, thì Hà Lan không cưỡng lại được cám dỗ của cuộc sống xa hoa nơi đô thị và ngã vào vòng tay của Dũng. Việc Hà Lan ngã vào vòng tay Dũng - một thanh niên nhà giàu, sành điệu, giỏi võ nhưng rất thiếu đứng đắn - đã làm cho Ngạn đau khổ rất nhiều, nhưng điều Ngạn cần là hạnh phúc của Hà Lan. Mỗi khi Dũng làm Hà Lan tổn thương cô lại tìm Ngạn để nói lên bầu tâm sự, điều đó lại càng làm cho Ngạn buồn thêm. Có lần Ngạn đã đánh nhau với Dũng vì Hà Lan và kết quả tất nhiên là Ngạn thua nhưng nó đã làm cho Ngạn bớt đi tính anh hùng, sẵn sàng đánh nhau mỗi khi Hà Lan bị bắt nạt. Và cũng từ đó những cảm xúc mỗi khi Hà Lan tìm đến Ngạn để giãi bầy niềm tâm sự giảm đi. Hà Lan mang thai, nhưng bị Dũng ruồng bỏ. Cô đành gửi con về cho bà ngoại chăm sóc và đặt tên là Trà Long. Tuy hiểu rõ tình yêu của Ngạn dành cho mình, Hà Lan vẫn không đáp lại vì cô hiểu rõ mình muốn sống theo một lối sống hoàn toàn khác với Ngạn. Bằng tình yêu của mình dành cho Hà Lan, Ngạn hết lòng yêu thương và chăm sóc cho Trà Long. Trà Long lớn lên trở thành cô giáo trường làng, và vô cùng yêu quý Ngạn. Trong khi ai cũng nghĩ rằng Trà Long sẽ là sự nối tiếp những gì mà Hà Lan đã bỏ dở trong đời Ngạn, thì Ngạn quyết định ra đi vì anh nhận ra rằng Trà Long chỉ là cái bóng của Hà Lan mà thôi.
Mắt Biếc - Sĩ Phú Mắt Biết - Tuấn Ngọc

Sunday, July 7, 2019

Mưa. Cổ tích. Và chỉ tôi khờ dại - Nhật Tân (Nguyễn thị Hồng Hải)

Thơ của Nhật Nguyễn (Nguyễn thị Hồng Hải)

Lần tôi về chốn cũ
Cổ tích buồn hơn xưa
Lá khô vàng ủ rũ
Bên thềm cỏ lưa thưa


Thời gian nhoà vết mực
Sương pha mờ hơi người
Ngọn cỏ nào bứt rứt
Ký ức nào chưa nguôi


Tìm nhớ trong sợi nắng
Tìm thương trong sợi mưa
Chút tình tôi xa vắng
Vá víu ngọn ngành xưa


Không lần về chốn cũ
Cổ tích mờ dấu xưa
Khu vườn trong huyền thoại
Đã chìm vào cơn mưa ..


Phiến lá sầu chơi vơi
Ký ức nào rơi rớt
Lả tả
ngày rụng rơi



Em trăm năm có lẽ
Rót tình
trôi mênh mông
Tôi một đời
quạnh quẽ
Hư không tay bế bồng
Em trăm năm xa biệt
Em nghìn năm mù tăm
Cổ tích
gầy như lá
Tình tôi
gầy lặng câm
Bàn tay
em phù phép
Rừng xưa không lối về
Như con sâu trốn lá
Tìm tôi giữa bộn bề
Khi em
Về chốn cũ
Mở tay ngó ngày xưa
Trong những đường gân đỏ
Giữ dùm tôi giọt mưa


Mưa
không làm em khóc
Dễ chi làm em buồn
Chỉ là tôi khờ dại
Chỉ là tôi dại khờ.


Nhật Tân PBC72

Saturday, July 6, 2019

Từ Hội Thảo Việt Nam Hóa Chiến Tranh tại Vietnam Center Đến Dự án đào tạo Hỗ Trợ Viết Sử VNCH và Bộ Sử về Người Mỹ Gốc Việt *Triều Giang

Thế hệ Sử gia Kế Tục về Chiến Tranh Việt Nam của Vietnam Center
Lubbock-Texas 28/4/2019: Đã có nhiều ngàn cuốn sách viết về chiến tranh Việt Nam, nhưng những cuộc tranh cãi về cuộc chiến sau 44 năm vẫn tiếp tục nóng bỏng và hứa hẹn còn tiếp tục trong nhiều năm sắp tới, vì hầu như mỗi bên đều giải thích cuộc chiến tranh quyết liệt theo cái nhìn riêng của mình. Đại chúng, sinh viên, học sinh vì thế không hiểu rõ về chiến tranh Việt Nam. Sáng lập viên của Vietnam Center, Giáo sư Tiến sĩ Sử học và cũng là cựu chiến binh Việt Nam James Reckner, người vừa từ trần năm ngoái, đã có sáng kiến thành lập Trung Tâm sử liệu về Chiến tranh Việt Nam, đặt tên là Vietnam Center vào năm 1989, và từ năm 1993, ông bắt đầu tổ chức Hội thảo hàng năm. Những cuộc Hội thảo “không giống ai” này quy tụ mọi phía; cộng sản, những người Mỹ, Việt và tất cả những người đã chiến đấu chống CS, những tài liệu, những ký ức của họ được quy tụ về đây để cung cấp dữ liệu cho học giả, tác giả, đại chúng  thuộc  “thế hệ sử gia kế tục về chiến tranh VN” (next generation of Vietnam War scholars). Và đó chính là sứ mạng của Vietnam Center: thu thập và lưu trữ sử liệu về Chiến tranh Việt Nam, đồng thời hỗ trợ và khuyến khích nghiên cứu và giáo dục về mọi khía cạnh của Kinh nghiệm giữa Việt Nam & Hoa Kỳ.
Đó là tóm tắt phần mở đầu cho bài diễn văn dài khoảng 10 phút của Tiến sĩ Ron Milam, Tổng Giám đốc Học viện Hòa bình và Xung Đột (Institute for Peace and Conflict) của Đại học Texas Tech vào buổi sáng thứ Sáu gày 26 tháng 4 vừa qua để bắt đầu cho 2 ngày chính của cuộc Hội thảo.
Trước đó Tiến sĩ Brent Lindquist, Khoa trưởng Đại Học Nghệ thuật của Texas Tech nơi Vietnam Center  trực thuộc đã có bài diễn văn ngắn ghi nhận sự tham gia đông đảo và đa dạng cũa cuộc Hội thảo năm nay với trên 70 bài tham luận từ trên 100 diễn giả; ngoài những nhà nghiên cứu độc lập, số còn lại đến từ  trên 30 đại học và các Trung Tâm Sử liệu của 9 quốc gia. Ông cám ơn sự có mặt đông đảo của cộng đồng người Mỹ gốc Việt năm nay, đặc biệt là những diễn giả nguyên là viên chức trong chính quyền Nam Việt Nam đã đến để chia sẻ những kinh nghiệm trực tiếp của họ về việc xây dựng xã hội miền Nam trong thời Việt Nam Hóa trong chiến tranh Việt Nam.
Giám đốc Vietnam Center, Tiến sĩ Steve Maxner sau đó đã nói về đề tài của năm nay: “1969: Việt Nam Hóa Chiến Tranh, và Những Năm Chuyển Đổi Cuộc Chiến” (1969: Vietnamization and the Year of Transition in the Vietnam War). Ông tỏ vẻ hài lòng về sự tham gia đông đảo và đa dạng của thành phần diễn giả. Ông cũng chia sẻ những khó khăn về việc sắp xếp chương trình và cám ơn các cộng tác viên của ông đã làm việc nhiệt tình để có kết quả hôm nay. Ông cám ơn quan khách tham dự và tỏ ý hy vọng mọi người sẽ có những ngày hội thảo trong sự tôn trọng lẫn nhau dù có những khác biệt để đem lại lợi ích cho mỗi người. Ông hy vọng mọi người sẽ trở lại Vietnam Center vào năm tới để thảo luận vể chiến tranh VN năm 1970. Vietnam Center sẽ kéo dài thảo luận hàng năm tới năm 2025 là năm kỷ niện 50 năm chiên tranh VN chấm dứt (1975-2025) . Sau đó có thể sẽ chuyển sang hướng mới.
Viết Sử Về Chiến Tranh Việt Nam: Một Hồi Tưởng
Bài thuyết trình đầu tiên do hai giáo sư : Lloyd Gardner thuộc Đại học Rutgers  và George Herring thuộc Đại học Kentucky với đề tài “ Viết Sử Về Chiến Tranh Việt Nam: Một Hồi Tưởng” ( Writing The History of the Vietnam War: A Retrospective) đã được giới thiệu bởi nghiên cứu sinh Tiến sĩ Justin Hart về tiểu sử cũng như những công trình nghiên cứu của hai diễn giả; Cả hai đều giảng dạy môn sử về chiến tranh VN trong nhiều năm và đã xuất bản nhiều sách. Riêng Giáo sư George Herring đã từng được CSVN mời thăm Hà Nội cùng với phái đoàn gồm những viên chức Hoa Kỳ và một số giáo sư và sử gia, dẫn đầu bởi cựu ngoại trưởng  McNamara vào năm 1997. Phần trình bày được Giáo sư Pierre Asseline của Đại học San Diego điều phối theo lối hỏi đáp nên linh động và bớt khô khan. Câu hỏi: đâu là những vấn đề căn bản về chiến tranh Việt Nam khiến nhiều người quan tâm nhiều nhất?
Giáo sư George Herring cho rằng việc người Mỹ tham chiến tại VN là điều sai lầm, nhất là quan điểm cho rằng người Mỹ phải lãnh đạo cuộc chiến tranh lạnh (chiến tranh giữa 2 khối tự do và Cộng Sản) và Nam Việt Nam là pháo đài quan trọng cần phải bảo vệ.
Riêng Giáo sư Lloyd Gardner thì trả lời rằng: Khó mà có thể có câu trả lời rõ ràng làm thỏa lòng mọi người. Mặc dầu đã có trên 4,000 cuốn sách được xuất bản nhưng những vẫn chưa có câu trả lời đích đáng cho những câu hỏi căn bản như:  vì sao người Mỹ tham chiến tại VN? Chính quyền Hà Nội muốn gì? Chuyện gì thực sự đã xảy ra tại Tết Mậu Thân? Tại sao các tác giả không quan tâm đến miền Nam VN bằng miền Bắc VN?...
Trả lởi câu hỏi hãy nêu tên 3 cuốn sách nên đọc để hiểu rõ hơn về chiến tranh VN, hai vị giáo sư đã nêu tên 3 cuốn: The Best and The Brightest của David Halberstam, theo hai ông thì sách này giải thích tốt nhất về lý do Người Mỹ tham chiến tại VN. Cuốn thứ hai là The Things They Carried của Tim O’s Brien’s diễn tả về tâm trạng của một chiến binh Mỹ tham chiến tại VN và cuốn thứ ba là The Sorrow of War của tác giả Bảo Ninh nói về kinh nghiệm của ông, môt chiến binh CS miền Bắc trong cuộc chiến.
Hai vị Giáo sư này là biểu tượng cho nhóm sử gia kinh điển chống chiến tranh Việt Nam. Mặc dù Gs. George Herring đã thú nhận ngay tại buổi hội thảo và trong Lời mở đầu của cuốn “America’s Longest War” tái bản lần thứ 5 rằng ông cũng thay đổi nhiều về cái nhìn của ông về cuộc chiến vì sự có mặt của người Việt Nam tại Hoa Kỳ. Nhưng, ông vẫn chỉ nhắc đến sự mất mát về nhân sự của Bắc Việt là 1 triệu người, của Hoa Kỳ là trên 58,000 người mà vẫn không nhắc nhở gì đến Nam Việt Nam hy sinh trên ¼ triệu nhân mạng.
Sống Sót Trong Chiến Tranh Việt Nam Và Thời Hậu Chiến
Vì số diễn giả quá đông và các đề tài đa dạng nên cuộc hội thảo sau đó được chia ra thành 3 phòng: Phòng Petroleum, Utility và Cotton gồm 6 bài tham luận với sự giới thiệu và điều phối của 3 phối trí viên Tiến sĩ Paul L. Miles từ Đại học Princeton, Nghiên cứu sinh Gerald Waite thuộc Đại học Ball State và Cựu Cố Vấn Tổng Thống kiêm Tổng Trưởng Bộ Dân Vận Và Chiêu Hồi VNCH, Hoàng Đức Nhã.
Bài tham luận của nữ ký giả Vũ Thanh Thủy tại phòng Cotton số người tham dự khá đông; khoảng một nửa là người Việt trong đó có một số nghiên cứu sinh và Tiến sĩ người Việt từ trong nước. Bà Thủy trình bày về kinh nghiệm làm ký giả chiến trường của bà và chồng bà ký giả Dương Phục trong thời gian chiến tranh khốc liệt giữa sự sống và cái chết trong gang tấc và bà cũng đã suýt chết ngoài chiến trường. Quyết định khó khăn của bà phải ở lại không di tản vào những ngày cuối tháng 4, 1975 để vừa là nhân chứng vừa là nạn nhân của những chính sách trả thù của CSVN sau khi họ lấy được miền Nam. Họ bắt bớ, tù đày, lột sạch tài sản của người miền Nam qua những cuộc đổi tiền, đánh tư sản mại bản. Chồng bà bị đi tù trong khi các con còn rất nhỏ. Bà đã giúp chồng vượt ngục rồi vượt biển tìm tự do trong một chuyến đi nguy hiểm và phải đối đầu với hải tặc, bà và gia đình đến được trại tị nạn Songkhla, Thái Lan và cuối cùng được định cư tại Hoa Kỳ.
Giọng bà xúc động, nghẹn ngào khi nói đến những thảm cảnh chia lìa của các gia đình, của sự khốn cùng của người dân VN trong những ngày tháng đau thương ấy khiến khán giả xúc động không ít.
Phần thảo luận cũng khá sôi nổi. Một trong những nghiên cứu sinh từ trong trong nước đặt câu hỏi về việc làm ký giả phải qua những huấn luyện của trường lớp nào? Bà Thủy cho biết trong thời đó tại miền Nam chưa chính thức có phân khoa báo chí tại các Đại học. Trường hợp của bà sau khi học xong Trung học, bà đã phải giấu cha mẹ để theo đuổi nghề ký giả vì thời đó nghề làm báo vẫn bị coi như không thích hợp với phụ nữ. Tại miền Nam mặc dù là thời chiến tranh nhưng các ký giả muốn viết viết gì thì viết, mặc dù có vấn đề kiểm duyệt nhưng nếu họ không cho đăng thì họ yêu cầu bỏ đi. Đó là đối với báo chí trong nước còn làm báo tự do (freelancer) cho các báo ngoại quốc thực ra không có gì hạn chế. Tuy nhiên, làm báo tự do không có lương chính thức, bà chỉ được trả công nếu bán được tin và hình ảnh. Những ký giả Việt Nam làm báo tự do cho các báo ngoại quốc (stringers) thường chịu nhiều thiệt thòi như họ không được ký tên trên những bản tin, hoặc hình. Nếu bản tin và hình được chọn đăng trên trang nhất cùa các báo ngoại quốc hay thậm chí được giài thưởng quốc tế, người mua hình được những vinh dự đó.
Môt câu hỏi khác là câu chuyện của bà rất hay và cảm động nói lên được cảnh tàn khốc của chiến tranh và tàn ác của CS, làm hế nào để có thể phổ biến rộng rãi cho người Mỹ và nhất là giới trẻ? Bà Thủy trả lời là bà sẽ tiếp tục phổ biến qua những Hội thảo tương tự như thế này. Bà và chồng bà mới xuất bản cuốn sách bằng tiếng Anh: “Surviving: The Vietnam War and Its Aftermath”. Bà cũng nhắc lại là tât cả những gì xảy ra trong cuộc Hội thảo này được quay phim và để lại ở đây cho các nghiên cứu sinh, học sinh và các học giả, bà quả quyết: “Chúng ta phải làm nhiều lần, liên tục thì hy vọng sẽ có kết quả”.
                                        Các “Think Tank” từ lạc quan đến bi quan
 Mọi người sau đó đã tụ tập tại phòng Petroleum để dùng bữa trưa và để nghe bài thuyết trình về đề tài Cơ Quan Nghiên Cứu và Phát Triển Chiến Tranh Việt Nam: Từ Lạc Quan đến Bi Quan (RAND and The Vietnam War: Optimism and Pessimism) của bà Dương Vân Mai Elliot, tác giả của cuốn sách được đề cử giải Pulitzer Liễu Thiêng, Câu Chuyện Gia Đình Về Bốn Cuộc Đời Trong Chiến Tranh VN.
Sau khi đảo chính TT. Ngô Đình Diệm, miền Nam VN đi vào thời kỳ bất ổn định chính trị, và Hoa Kỳ cũng rơi vào cảnh lúng túng trong việc hoạch định đường lối cho cuộc chiến. Họ thết lập cơ quan Nghiên cứu và Phát Triển (Research and Development viết tắt là RAND), cơ quan đầu não của cuộc chiến. RAND xử dụng những “Think Tank” là những tổ chức độc lập chuyên nghiên cứu và cung cấp những dữ kiện để RAND dùng để hoạch định những chính sách . Theo sự phân tích của bà Mai, mặc dù những nhà nghiên cứu này đã được chính phủ Hoa kỳ dành mọi phương tiện để làm việc, kể cả việc tiếp xúc, điều tra tù binh CS để lấy tin tức nhưng ý kiến của các “Think Tank” này rất khác biệt và đối chọi; có “Think Tank” kết luận bi quan rằng chiến tranh Việt Nam là cuộc đấu tranh giành độc lập và thống nhất của dân tộc VN, kéo dài từ thời Pháp thuộc của những người đầy kinh nghiệm chiến trường cũng như lòng can đảm. Và họ kết luận rằng cuộc chiến tranh này không thể thắng và người Mỹ đang ủng hộ phe phi chính nghĩa (“wrong side”; ý chỉ miền Nam).
Lại có những “Think Tank” khác cho những ý kiến đầy lạc quan cho TT. Johnson, cho rằng phần thắng đang nghiêng về phía Hoa Kỳ và chỉ cần tiếp tục dội bom để sàng lọc người dân ra khỏi vùng xôi đậu của Việt Cộng thì chiến thắng chỉ là thời gian. Nhưng khi CSBV tổ chức tổng công kích tết Mậu Thân trên toàn lãnh thổ VN thì chính giới và người dân Hoa Kỳ đã hoàn toàn nghi ngờ lập luận này.  Sau đó, vào thời TT. Nixon, RAND làm việc với “Think Tank” khác do Daniel Ellsberg, một phân tích gia sáng chói vào thời ấy đã đưa ra một Bản đề nghị nếu muốn chương trình Bình định và Việt Nam Hóa của TT. Nixon và Henry Kissinger thành công, cần phải có những chương trình hỗ trợ đặc biệt của Hoa kỳ từ chiến trường cho đến những việc trợ kinh tế cho miền Nam VN. Nhưng vào lúc này mục đích chính của TT. Nixon và đặc biệt là cựu Ngoại trưởng Kissinger là muốn rút khỏi VN càng nhanh, càng tốt để đưa chú tâm của Hoa Kỳ vào vùng đất khác; đó là Do Thái và Trung đông nên đã bỏ qua. Không được trọng dụng, Ellsberg trở thành người chống chiến tranh VN và những hoạt động như lấy trộm tài liệu để trao cho các báo như New York Times, Washington Post đã khiến Ellsberg bị bắt và bị tù về tội trộm cắp và gián điệp, vai trò của RAND kể như bị tan biến sau đó.
Bài tham luận của bà Dương Vân Mai Elliot đã đem lại cho thính giả hiểu được nguồn gốc của những chính sách sai lầm và bất nhất của Hoa Kỳ vào những năm 1964-1969. Những sai lầm này không những đã đóng góp vào sự thất bại của Hoa Kỳ và sự thất thủ của miền Nam VN mà còn để lại hệ lụy đến ngày hôm nay; đó là một xã hội Hoa Kỳ hoàn toàn chia rẽ mỗi khi nói đến chiến tranh Việt Nam.
Chiếu Phim, Thảo luận về Phim VIETNAMERICA
 Buổi chiều Hội thảo gồm 2 tiết. Tiết từ 1:30pm tới 3:00pm và từ 3:30pm tới 5:00pm. Mỗi tiết gồm 4 phòng hội thảo; mỗi phòng có từ 2 tới 3 bài tham luận. Tiết 1 và tiết 2 tại phòng Petroleum dành cho việc chiếu phim và thảo luận về phim VIETNAMERICA.
Cựu Tổng Trưởng Hoàng Đức Nhã một lần nữa đã làm điều phối viên. Ông giới thiệu nhà sản xuất Nancy Bùi. Bà Nancy chia sẻ: VIETNAMERICA là  tác phẩm của hội Bảo Tồn Lịch Sử  Văn Hóa Người Mỹ Gốc Việt và công ty Edwards Media, đã dược làm để nói lên sự thực về chiến tranh Việt Nam đặc biệt là chuyện gì đã xảy ra cho người miền Nam VN sau khi chiến tranh chấm dứt Bà nhấn mạnh rằng: mọi người trên thế giới đã nghĩ rằng người Việt Nam đã tìm được hòa bình và sống an vui, nhưng không lâu ngay sau đó, thế giới kinh ngạc trước những con thuyền rách nát chở những con người  khốn khổ trốn chạy  khỏi quê hương để tìm tự do. Đã có hàng trăm ngàn người bỏ xác trên đường đi tìm tự do trong nhiều thập niên trên biển đông. Những người sống sót đã được nhiều nước trên thế giới đón nhận, riêng tại Hoa Kỳ, người Việt trở thành nhóm người tị nạn đông đảo nhất với những thành công và đóng góp đáng kể vào đất nước này.
Phần chiếu phim đã lôi cuốn được khán giả với nhiều cảm xúc, nhiều khán giả đã khóc vì cảm thương cho hoàn cảnh đáng thương của các nhân vật trong phim.
Phần thảo luận khá sôi nổi dưới sự điều phối đầy kinh nghiệm của cựu Tổng trưởng Hoàng Đức Nhã và sự tham gia của Bác sĩ Phạm Đình Vượng, chủ tịch Ban Điều Hành của Tập Thể Chiến sĩ VNCH Hải Ngoại và ông John Hòa Nguyễn, Giám đốc Liên lạc Cộng đồng của hội VAHF và nhà sản xuất Nancy Bùi. Một số khách người Mỹ phát biều những cảnh trong phim họ có nghe nhưng ít được thấy và họ cám ơn nhà làm phim đã đem đến cho họ để họ hiểu thêm về những gì đã xảy ra cho người Việt Nam sau khi chiến tranh chấm dứt. Câu hỏi khác thuộc về nhóm nghiên cứu sinh trẻ đến từ VN hỏi rằng những người trẻ Việt Nam tại Hoa Kỳ làm thế nào để vượt qua sự khủng hoảng về bản thể tại xứ người đã được trả lời rằng Hoa Kỳ là một Hiệp Chủng Quốc, người dân đến định cư từ ít nhất là 168 quốc gia trên thế giới, do đó, người trẻ dù có phải trải qua một giai đoạn khó khăn về tinh thần của tuổi thanh thiếu niên thì cũng như các bạn trẻ khác tại Hoa Kỳ. Đặc biệt là sự đa dạng về sắc tộc tại Hoa Kỳ đang có những thay đổi mà theo các nhà nhân chủng học thì đến năm 2025, người Mỹ trắng tại Hoa Kỳ có thể trở thành người thiểu số trên đất nước này. Vì thế, có những bài báo hay những tuyên truyền từ trong nước nói rằng thanh thiếu niên VN sống trên nước Mỹ khủng hoảng về bản thể, về nguồn gốc trầm trọng là không đúng. Một câu hỏi khác hỏi rằng vì sao người Việt hải ngoại vẫn mang quá nhiều hận thù mà không cùng những người trong nước xây dựng đất nước, chiến tranh đã chấm dứt 44 năm rồi?  Ba tham luận viên đã trả lời rằng nếu nói người Việt hải ngoại vì hận thù mà không hợp tác với nhà nước CS thì không đúng. Người Việt lúc nào cũng yêu thương quê hương, chúng tôi vẫn nhớ từng con đường, từng nhánh sông, từng dãy phố chúng tôi đã sống một phần đời. Với người Việt Nam, họ là bà con, thân thuộc của chúng tôi, chúng tôi không có gì để thù ghét họ. Chúng tôi không tiếp tay với nhà cầm quyền CSVN vì biết rằng mọi lợi ích sẽ chỉ đem lại cho họ và phe nhóm của họ, trên 90% người dân vẫn phải sống nghèo đói trong kềm kẹp thiếu tự do, thiếu công bằng dưới một chế độ toàn trị, độc đảng.
Riêng ông bà Wiliam & Mary Alice Tynan là những nhà giáo sống và làm việc tại khu học chánh thành phố Lubbock đã chia sẻ:  “Cuốn phim có giá trị giáo dục, tất cả những người trẻ tại Hoa Kỳ cần phải xem, chúng tôi sẽ vận động để tất cả học sinh Trung học thuộc khu học chánh Lubbock phải được xem phim VIETNAMERICA để các em hiểu được giá trị của tự do và yêu mến quê hương của họ nhiều hơn”.
                                         Canada và Viện Bảo Tàng Quân Đội Calrary Alberta
Trong khi đó tại phòng Utility, phối trí vên Rebecca McGee, thuộc Đại học Texas Tech giới thiệu 3 diễn giả nói về đề tài Người Canada và Chiến Tranh VN. Quản thủ Thư viện Rory Cory giới thiệu cuộc triển lãm được bày ngay trong hành lang của các dãy phòng Hội thảo. Diễn giả James Baldwin đến từ Viện Bảo tàng Quân đội Calgary Alberta trình bày về chương trình Oral History phỏng vấn những cựu chiến binh Canada từng có mặt tại VN trong thời chiến tranh.
Hai diễn giả Cựu Thượng sĩ Mike Male từng có mặt tại Việt Nam từ năm 1967-1971 thuộc đơn vị Kỹ thuật và Corporal Dana Urban, công tác tại VN từ năm 1968-1969 trong ngành Quân Y thuộc đơn vị thứ 26 của Thủy Quân Lục Chiến. Trong suốt thời chiến tranh, mặc dù Canada đứng thế trung lập và đất nước Canada từng là “nơi trú ẩn an toàn” (safe haven) của nhóm phản chiến chống chiến tranh VN và những người Mỹ trốn quân dịch ẩn náu, nhưng chính phủ Canada cũng đã có những chương trình nhân đạo. Họ gửi các đơn vị quân y và kỹ thuật để giúp về vấn đề cứu thương cũng như xây dựng những đổ nát của chiến tranh VN. Chính phủ Canada cũng đã ghi chép và bảo tồn những hình ảnh và kinh nghiệm của các cựu chiến binh của họ để lưu truyền lại cho thế hệ mai sau của Canada.
Tại phòng Cotton, ba diễn giả nói chuyện về những binh chủng đặc biệt qua sự giới thiệu của nhà báo Donald Kirk. Ông Stephen Sherman, một cựu chiến binh trình bày về Lực Lương Đặc Biệt Green Beret, Kyle Horst giới thiệu về Ông Thái Khắc Chuyên và Lực Lượng Green Beret và Tiến sĩ James Sanday, Thuộc Đại học UT Arlington.
Phòng Heritage có 2 bài tham luận về cái nhìn tổng quát về cuộc chiến vào năm 1969 và chính sách của Tổng Thống Nixon. Giáo sư Lloyd Gardner của Đại học Rutgers làm phối trí viên với sự trình bày của Tiến sĩ Carolyn Eisenberg thuộc đại học Hofstra và nghiên cứu sinh Tiến sĩ Ashley Neale thuộc Đại học Kansas.
                                            “Đâu là Những Chọn Lựa Có Thể Của TT Nixon?”
Ngày đầu Hội thảo được kết thúc bằng bữa tiệc tại Đại sảnh của Trung Tâm Văn Hóa Quốc tế của Đại học Texas Tech. Tại đây, khảng gần 50 cựu chiến binh Hoa Kỳ từng tham chiến tại VN và cựu chiến sĩ VNCH được mời lên nhận một nút cài áo kỷ niệm của cựu chiến binh với hình diểu hâu đẹp mắt. Quang cảnh của đại sảnh với trần nhà xây hình vòng tròn có treo một rừng cờ của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Chúng tôi quan sát thì thấy không có cờ CSVN cũng như cờ VNCH được treo.
Bài nói chuyện với đề tài “Đâu là Những Chọn Lựa Có Thể Của Nixon?” của Tiến sĩ Fred Logevall, tác giả đoạt giải Pulitzer năm 2013 với tác phẩm: Embers of War: The Fall of an Empire and the Making of America's Vietnam, tạm dịch là: “Tàn Cuộc Chiến: Sự Sụp Đổ Của Một Đế Chế và Ảnh Hưởng Hoa Kỳ Vào Việt Nam”.  Với cái nhìn của sử gia kinh điển cho rằng chiến tranh VN sau 1954 -1975 là sự kéo dài của cuộc chiến chống Pháp của người quốc gia VN (nationalist) chống thế lực xâm lăng từ phương Tây và cả hai thế lực Pháp rồi Mỹ đã phải thua tại vùng đông Nam Á  và TT Nixon không có nhiều chọn lựa khi vụ nghe lén Watergate bị phanh phui với kết cuộc là TT. Nixon phải từ chức. Những lập luận này không có gì là mới mẻ, hấp dẫn mặc dầu diễn giả là người có tiếng. Thêm vào suốt một ngày dài làm việc, không còn mấy ai tập trung để theo dõi.
Trên 40 bài tham luận cho ngày cuối của cuộc Hội thảo
Ngày thứ ba của Hội thảo chương trình cũng đầy ắp. Chúng tôi đếm được tất cả trên 40 bài tham luận gồm những đề tài về: Hành quân của Không lực Hoa Kỳ, Tham dự của các quân đội đồng minh Cam Bốt, Nam Hàn, Canada, Các mật vụ của  Ba Lan, Phong trào phản chiến của nhóm cựu chiến binh Hoa Kỳ và Nhạc phản chiến vào năm 1969, Chương trình phát triển nông thôn với sự hỗ trợ của các cố vấn Mỹ, Kinh Tế của Nam Việt Nam trong thời gian Việt Nam Hóa, Những trận đánh lớn sau Việt Nam Hóa gồm trận Hamburger Hill và Cuộc hành quân tại Cam Bốt, Thảm sát Mỹ Lai, Giáp chiến trong chiến tranh VN, Việt Nam Hóa và tình hình an ninh của miền Nam, Hội thảo bàn tròn về kinh nghiệm của cựu chiến binh người Mỹ gốc Latinh, Nhiệm vụ mới của  hàng không mẫu hạm USS Midway trở thành viện Bảo Tàng với Trung Tâm Nghiên cứu về chiến tranh VN  cho các thầy cô giáo, Mặt trận hậu phương tại Nam Việt Nam với hai bài tham luận về phát triển Đại học tại miền Nam và Phong trào Phật giáo tranh đấu ảnh hưởng ra sao tới sự thất bại của miền Nam VN từ năm 1969 tới- 1975, Kinh nghiệm của người lính tiền phương trong năm đầu tiên của Việt Nam Hóa, Chương trình Việt Nam Hóa và Bình Định tại Sư đoàn 5 VNCH, Hiệu quả của Việt Nam Hóa, Tù binh chiến tranh CSVN đã được đối xử ra sao, Tị nạn, và Lực lượng Cảnh sát của miền Nam VN vào năm 1969.
                      An Ninh và Phát Triển Kinh Tế của Miền Nam VN thời Việt Nam Hóa
Mặc dầu Vietnam Center có hai bộ sưu tập nổi tiếng mà trên bảng quảng cáo của website, Việt Nam Center vẫn quảng bá hàng ngày; đó là bộ sưu tập của ký giả Douglas Pike với đầy đủ những chứng cứ tội ác của CSVN về cuộc thảm sát Mậu Thân và bộ sưu tập về Tù Nhân Chính trị VN gồm 200, 000 đầy đủ tang chứng  của gần 1 triệu tù nhân chính trị gồm những sĩ quan, viên chức của quân đội và chính quyền VNCH, những vị lãnh đạo tôn giáo, trí thức doanh thương gia và những người bất đồng ý kiến về việc cai trị tàn ác của CSVN. Hội Bảo Tồn Lịch Sử và Văn Hóa Người Mỹ Gốc Việt đặt để tại đây từ năm 2007. Bộ sưu tập này do bà Khúc Minh Thơ và Hội Tù Nhân Chính Trị Việt Nam lưu trữ trong gần 30 tranh đấu cho tù nhân chính trị VN được thả tự do và định cư tại Hoa Kỳ. Nhưng những buổi hội thảo hàng năm ở đây trong hơn 26 năm qua phần lớn vẫn nghiêng về phe chống chiến tranh và ít nhiều phản ánh những luận điệu tuyên truyền của CS. Lý do chính vì những buổi hội thảo này tùy thuộc vào ai là những diễn giả?  Họ là những người bị ảnh hưởng sách vở cũ của các sử gia kinh điển phản chiến Hoa Kỳ, những nhà nghiên cứu như những con mọt sách nhai đi, nhai lại mớ kiến thức cũ rích và sai sót. Thêm vào những nỗ lực tuyên truyền của CSVN liên tục mỗi năm bỏ hàng nhiều triệu đô la để dịch ra tiếng Anh những sách vở tuyên truyền của họ. Ít ai có can đảm nghiên cứu và tìm hiểu rộng hơn để có cái nhìn khác biệt với đám đông bậc thầy đã sai và còn tiếp tục sai?
Vì thế, hai phần trình bày và thảo luận của 6 viên chức VNCH do Giáo sư Tiến sĩ Tường Vũ, Giám đốc Trung tâm Á Châu học tại Đại học Oregon điều phối đã là một luồng gió mới cho cuộc hội thảo năm nay của Việt Nam Center. Phần trình bày về Kinh tế của miền Nam trong thời Việt Nam Hóa được mở đầu với đề tài: “Cải cách hay sụp đổ: Thách thức kinh tế đối với Việt Nam Cộng Hòa 1969-1973” do nguyên Tổng trưởng Kinh tế Phạm Kim Ngọc, một người có rất nhiều kinh nghiệm về Ngân hàng trước khi được bổ nhiệm làm Tổng trưởng, năm nay ông đã 92 tuổi nhưng tuổi tác đã không ảnh hưởng gì đến bài thuyết trình của ông. Bài nói chuyện của ông thật khúc triết với những dẫn chứng mạch lạc. Ông nói về thách thức lớn nhất trong thời gian này là làm thế nào để cân bằng ngân sách trước những cắt giảm viện trợ. Trước đó, tiền viện trợ chiếm 80% ngân sách quốc gia, tới năm 1973, viện trợ giảm xuống số không nên cần phải khuyến khích sản xuất, nỗ lực tìm kiếm và phát triển ngành dầu hỏa, phải tìm các nguồn thuế để bù đắp như thuế nhập cảng các mặt hàng xa xỉ. Khi đó có 40 loại thuế khác nhau khiến dư luận dân chúng và báo chí không mấy ủng hộ. Ông và nhân viên của ông phải tìm ra nhiều giải pháp và những điều chỉnh liên tục. Ông là Tổng trưởng kinh tế lâu đời nhất vào lúc bấy giờ (1969-1973). Dù sao thì kinh tế miền Nam trải qua rất nhiều khó khăn nhưng không vì sự cắt giảm đột ngột đó mà sụp đổ. Đây cũng là một thành quả đáng ghi nhận, nhất là trong một hoàn cảnh khó khăn là áp dụng kinh tế thị trường, một hình thái kinh tế rất mới cho một xã hội vừa ra khỏi một nửa là chế độ đô hộ của người Pháp và một phần là quân chủ chuyên chế, trong bối cảnh chiến tranh khốc liệt.
Kinh tế miền Nam trong cảnh “Mỹ hóa chiến tranh” 
Bài tham luận thứ hai do Tổng trưởng Thương Mại và Kỹ Nghệ Nguyễn Đức Cường nói về những nỗ lực phát triển thương mại và Kỹ nghệ. Ông Cường cho biết; ông và nhóm bạn trẻ vào thời đó được học bổng du học tại Mỹ qua chương trình USAID (US Agency For International Development). Ông về nước năm 1965, cùng thời với những chuyên viên trẻ với kiến thức học từ Hoa Kỳ, hầu hết thuộc các ngành kỹ thuật, với những tên tuổi như Hoàng Đức Nhã, Trần Quang Minh, Nguyễn Đăng Khôi, Lê Trọng Mưu, Lê Mạnh Hùng, Hà Xuân Trừng…và với một bầu nhiệt huyết muốn làm một cái gì đó cho đất nước. Riêng ông với bằng kỹ sư nhưng với nhu cầu lúc bấy giờ, ông đã sớm từ bỏ ngành kỹ thuật và phục vụ trong ngành kinh tế, thương mãi và Kỹ nghệ.
Ông chia sẻ: “Vào lứa tuổi của chúng tôi, chúng tôi may mắn được sống khoảng thời gian đẹp nhất của miền Nam; đó là những năm 1956-1963 dưới thời TT. Ngô Đình Diệm. Khi người Mỹ muốn đưa quân vào Việt Nam, ông Diệm bị giết và sau đó là một thời gian khủng hoảng chính trị. Năm 1965 họ bắt đầu đổ quân vào VN và chỉ trong khoảng 2 năm vào cuối năm 1967 số quân nhân Mỹ có mặt tại miền Nam là trên 500,000”. Ông gọi thời gian này là thời gian “Mỹ hóa chiến tranh”. Ngoài mặt trận chiến tranh mỗi ngày, mỗi khốc liệt, tại hậu phương, việt Nam đón nhân một số lính Mỹ đông đảo với những phương tiện được đưa thẳng từ Mỹ. Họ đổ tiền vào xây đường xá, căn cứ. Họ đem cả mộ hệ thống chợ PX để đưa thực phẩm và đồ gia dụng…kinh tế và đời sống người Việt cũng được nâng cao. Tuy nhiên, vì chiến tranh mở rộng, đất sản xuất bị co lại. Hàng nhập cảng tràn ngập, miền Nam trở thành một xã hội tiêu thụ và mỗi ngày mỗi phải dựa vào tiền viện trợ. Dưới thời Đệ nhất Cộng Hòa gần 10 năm tổng số tiến viện trợ chỉ khoảng trên 3 tỉ; trung bình mỗi năm khoảng $220 triệu. Từ năm 1965 tới 1975, tiền viện trợ lên tới 22 tỉ. Có những năm tiền viện trợ lên tới 4 tỷ. Trong khi đó, gần một nửa ngân sách quốc gia phải dành cho quốc phòng, dù mức lương bổng của 1.4 triệu quân nhân và công chức rất thấp so với vật giá. Trong bối cảnh đó, bộ thương mại và kỹ nghệ cố gắng phát triển đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, đánh thuế vào hàng nhập cảng để khuyến khích hàng nội địa, thành lập những khu công nghiệp, tìm các nguồn tài trợ ngoài viện trợ của Hoa kỳ, phát triển việc tìm các mỏ dầu, và đánh bắt hải sản…những biện pháp này đã giúp Nam Việt Nam giữ mức độ lạm phát khoảng 30%-40% là mức độ có thể chịu đựng được.
Sự phồn vinh với những nhà cao cửa rộng, quán xá tấp nập, ban đêm quán bar đèn xanh đỏ tưng bừng, tập trung tại thủ đô Sài gòn, ảnh hưởng từ chiến tranh chỉ là lâu lâu có những vụ đánh bom của đặc công CS gây chết chóc và thiệt hại không đáng kế.  ¾ dân số còn lại sống tại các miền quê nghéo khổ và phải đối đầu với chiến tranh hằng ngày, hàng giờ. Hình ảnh này đã không gây ấn tượng đẹp đẽ cho những dân biểu, thượng nghị sĩ, báo chí Hoa Kỳ, những viên chức trong phái đoàn đi khảo sát thực tế (fact finding) đến Việt Nam để xem dân cho biết sự tình để về trình lại với chính phủ, quốc hội và người dân Hoa Kỳ, những người đã và đang đóng thuế để viện trợ cho cuộc chiến tranh quá dài, quá mỏi mệt. Phong trào chống chiến tranh VN tại Hoa Kỳ lan dần ra thế giới, cùng với truyền thông, không bỏ lỡ cơ hội để truyền truyền Miền Nam mất dần sự ủng hộ của quốc hội, của người dân Hoa Kỳ và toàn thế giới.
Phải công tâm mà nói, nhìn chung dù gặp nhiều khó khăn vì chiến tranh, so với các nước Á Châu trong vùng như Thái Lan, Đài Loan, Nam Hàn...Nam Việt Nam vẫn phát triển trước họ nhiều mặt. Riêng nếu so sánh với miền Bắc thì đời sống dân miền Nam cao hơn cả trăm lần. Nhưng vào lúc đó, mấy ai đã lên tiếng để bênh vực cho miển Nam?
Phần trình bày về “Năm 1969: Chương Trình Người Cày Có Ruộng Ra Đời” (1969: The Year the Land-to-the-Tiller” Program was Launched) do cựu Thứ Trưởng Bộ Cải Cách Điền Địa và Phát Triển Nông Nghiệp, Trần Quang Minh trình bày. Là một trong những chuyên viên được học từ Mỹ về, thứ trưởng Minh gốc người miền Tây, xuất thân từ gia đình điền chủ nên ông rất gần gũi với nông thôn miền Nam. Với tuổi đời gần 80 nhưng ông vẫn không dấu được sự nhiệt tình khi ông nói về những thay đổi tốt đẹp cho nông thôn Việt Nam ngày ấy. Những biện pháp để chống giá gạo tăng hầu ổn định thị trường, việc thử nghiệm và thành công của lúa Thần nông, những thay đổi cung cách làm việc bị ảnh hưởng nặng nề lối làm việc chậm chạp, thiếu năng động và sáng kiến của người Pháp, đặc biệt là chương trình “ Người Cày Có Ruộng” đem lại công bằng và sinh khí mới cho nông thôn Vệt Nam khiến cho một số những phân tích gia trên thế giới phải nhận định rằng: “ Người Cày Có Ruộng là chương trình thành công quan trọng nhất của Việt Nam Hóa chiến tranh”, vì “đây là cuộc cách mạng nông thôn đem lại công bình, no ấm cho người dân mà không cần đổ một giọt máu”…
“Đồng minh nhưng không đồng lòng”
Phần trình bày về tình hình an ninh và những biện pháp đáp ứng với tình hình mới của miến Nam với 3 bài tham luận; một của cựu Tổng Trưởng Dân vận và Chiêu hồi Hoàng Đức Nhã qua đề tài: “Tác động Của Việt Nam Hóa và Chiến lược Tự lực và Tự Cường”. Ông Hoàng Đức Nhã mở đầu phần trình bày với tuyên bố rằng danh từ Vietnamization, mà các giới truyền thông dịch là Việt Nam Hóa, là một danh từ phía chánh quyền Nixon tạo ra vì nhu cầu giao tế và giải thích chánh sách mới của họ. Ông Nhã nói thêm rằng chánh phủ VNCH không bao giờ dùng danh từ Việt Nam Hóa. Trái lại, VNCH lúc nào cũng mô tả chánh sách Tự Túc Tự Cường của mình là một mặt, quân lực VNCH, dần dần và theo một chương trinh có mục tiêu rõ ràng và thời gian tính, thay thế các đơn vị chiến đấu và hỗ trợ của Hoa Kỳ tham chiến tại Việt Nam, và mặt khác, VNCH yêu cầu Hoa Kỳ giúp đở quân sự và kinh tế để bảo tồn tự do và phát triển đất nước.
Ông Nhã xác nhận rằng VNCH giữ cam kết trong việc thây thế quân lính Hoa Kỳ mặc dù Cộng Sản Bắc Việt vẫn tấn công toàn diện trên lãnh thỗ của VNCH; tuy nhiên, phiá Hoa Kỳ dần dần cắt đứt viện trợ quân sự và kinh tế để mặc VNCH tiếp tục chiến đấu chống Bắc Việt vẫn được đồng minh Nga Tàu tiếp tục viện trợ dồi dào và với những  vũ khí tối tân”;
Trong khi đó, quân VNCH tiếp tục chiến đấu anh dũng trong thiếu thốn nhưng đã thắng vẻ vang những trận tấn công ồ ạt và vũ bão của CSVN như tại Quảng Trị, Bình Long, Kontum… Rồi đầu năm 1973, TT. Thiệu phải ký vào Hiệp định Paris với nhiều khoản bất lợi cho VNCH. Tại nghị trường của Hoa Kỳ, những nghị sĩ dân biểu muốn chấm dứt chiến tranh bằng mọi giá đã có những vận động và phát biểu bất lợi cho việc vận động Hoa Kỳ giúp Nam Việt Nam cho đến khi được ổn định. Thượng Nghĩ sĩ Fulbright của Arkansas tuyên bố khi nghe tin Nam VN sắp mất: “…không thất vọng hơn khi nghe tin đội banh Arkansa bị thua đội Texas”, hoặc nhóm điều tra thực tế của Quốc Hội Hoa Kỳ về những cáo buộc vi phạm nhân quyền tại VN. Báo cáo của họ đã không có kết quả tốt. Và min Nam bị cắt đứt dần các nguồn viện trợ quốc phòng cũng như kinh tế sau khi Hiệp định Paris được ký kết vào đầu năm 1973. Chương trình Việt Nam Hóa coi như sụp đổ hoàn toàn cùng với sự sụp đổ của Nam VN vào ngày 30/4/1975.
Vì lý do sức khỏe, cựu Trung tá Bùi Quyền, Chỉ huy Phó Lữ đoàn 3 Nhảy dù Quân lực VNCH đã không thể đến để trình bày bài thuyết trình:  “Quân Đội VNCH Trong Quá Trình Việt Nam Hóa: Những Quan Điểm  Một Người Lính tại Tiền Tuyến” (The Army of the RVN during Vietnamization: Reflections of a Frontier Soldier), Cựu TT. Cường đã thay thế đọc bài tham luận để nói đến những khó khăn ngàn lần của quân đội Nam VN khi chiến đấu cùng với quân đội Hoa Kỳ. Khi người Mỹ muốn đổ quân vào miền Nam VN, họ đã làm cho bằng được, họ tự động mà không có sự tham khảo hay đổng ý của chính phủ Nam VN để có sự chuẩn bị tâm lý cho quân dân Nam VN hay dư luận tại Hoa Kỳ. Tháng 3, 1965 họ đã đổ toán quân đầu tiên trên 3,000 quân tại vịnh Đà Nẵng. Những quyết định có tính cách đơn phương này không có lợi về mặt dư luận tại VN cũng như tại Hoa Kỳ, nên mặc dù sau đó là những đợt đổ quân ào t trong vòng 3 năm số quân Hoa Kỳ tham chiến tại VN lên tới quá nửa triệu người và hầu như họ và quân đội Nam VN không thua bất kỳ trận đánh nào, nhưng miền Nam đã thất thủ vì lý do chính trị. Đó là kết quả không tránh được của một đồng minh nhưng không đồng lòng. Và đó là kinh nghiệm mà Nam VN đã phải trả giá quá đắt. Những người trả giá đắt nhất là quân cán chính VNCH và gia đình họ.
Bài tham luận cuối cùng của các viên chức VNCH với đề tài “Lực Lượng Cảnh Sát Quốc Gia VNCH Trong Quá Trình Việt Nam Hóa” (The RVN National Police Force during Vietnamization”), do cựu Đại tá Trần Minh Công, Viện trưởng Học viện Cảnh Sát Quốc Gia, trình bày. Ông cho biết ngoài việc gìn giữ an ninh cho hậu phương dù phải đối đấu với các phong trào biểu tình chống đối như của sinh viên, học sinh…, Lực Lượng Cảnh Sát QGVN còn phài lo việc tự cải cách và hỗ trợ cho những những chương trình hỗ trợ quân đội chiến đấu ngoài mặt trận như chương trình tình báo, phối hợp với Bộ Chiêu hồi về tù binh, với các chương trình Bình Định và Phát Triển Nông Thôn. Lực Lượng CSQG đã giữ vũng được hậu phương miền Nam cho đến ngày cuối cùng.
“Đồng sàng, dị mộng”
 Những bài tham luận về tình hình miền Nam Việt Nam trong thời kỳ chuyển tiếp do chính những người trong cuộc trình bày nên nó có giá trị đặc biệt với những chứng từ của người mang rách nhiệm nói về những nỗ lực của miền Nam ngoài việc bảo vệ đất nước vẫn cố gắng xây dựng xã hội, kinh tế, kỹ nghệ, thương mại…Mặc dầu còn rất non trẻ nhưng những viên đá đầu tiên đã được đặt xuống cho nền tảng của môt xã hội dân chủ tự do, tôn trọng quyền làm người. Tiếc thay cơ hội này đã không được cất cánh, cũng như dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa sau những năm tháng ổn định chính trị, cơ hội ổn định miền Nam và chiến thắng Cộng sản của TT. Ngô Đình Diệm cũng bị tan tành khi người Mỹ muốn đưa quân vào miền Nam ủng hộ phe đảo chính, giết TT. Diêm và đổ quân ào ạt vào miền Nam khiến miền Nam mất dần chính nghĩa.
Kinh nghiệm đau xót của người Việt tự do với đồng minh Hoa Kỳ, “nhũng kẻ đồng sàng nhưng dị mộng”với đồng minh Nam Việt Nam và những nỗ lực xây dựng đất nước trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt của nam VN để người dân được hưởng tự do, nhân bản, trong khi miền Bắc thì hoàn toàn nằm trong sự kềm kẹp của của CSVN, người dân sống không hơn con vật, phải hy sinh tất cả cho mộng bá chủ của CSVN và CS quốc tế.  Phần đông các sử gia Hoa Kỳ cố tình bỏ quên và CSVN thì tìm mọi cách che dấu và xuyên tạc. Muộn còn hơn không, nếu chúng ta nói lên với đầy đủ chứng cớ hai vấn đề quan trọng kể trên tại các diiễn đàn giáo dục như tại Vietnam Center đây, thì hy vọng bài học về chiến tranh VN có cơ hội được sáng tỏ cho thế hệ mai sau cùng học hỏi và tránh vết xe đổ.
                             “Hiểu Kẻ Thù: Chìa Khóa Chiến Thắng Của Hà Nội”
Bài nói chuyện trong bữa trưa thứ bảy tại phòng Petroleun của Giáo sư tiến sĩ Pierre Asselin thuộc đại học San Diego State với đề tài “Hiểu Kẻ Thù: Chìa Khóa Chiến Thắng Của Hà Nội” (Understand the Enermy: Keys to Ha Noi’s Victory) đã có cái nhìn sắc bén về chiến thuật, chiến lược của Hà Nội. Ông phân tích rằng Hà Nội biết không thể nào chiến thắng Hoa Kỳ và Nam Việt Nam bằng súng đạn, nên họ đã nhắm vào cuộc chiến tranh tâm lý, vận động dư luận tại Hoa Kỳ và toàn thế giới bằng cách dồn mọi nỗ lực vào mặt trận tuyên truyền với sự hỗ trợ của tình báo Nga. Họ đã đưa ra những hình ảnh để mô tả Hoa Kỳ là kẻ mạnh đến VN để xâm lăng những người yếu đuối, nhỏ bé chỉ muốn bảo vệ quê hương. Những hình ảnh như: một anh lính Mỹ to béo đứng cạnh một nữ cán binh cộng sản ôm súng người gầy gò và chỉ cao bằng nửa người lính Mỹ, hay hình ảnh cô Kim Phúc chạy trần truồng trên đại lộ Trảng Bàng vì bị bom Napal đốt cháy …Và hình Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan chỉa súng bắn tên đặc công Nguyễn văn Lém mặc quần áo dân sự để bôi nhọ miền Nam là một chế độ tàn ác và người Mỹ đã đứng về phía kẻ ác trong cuộc chiến tranh. Hà nội đã khôn ranh trong việc họ sống lẫn trong dân nên những chiến dịch sai lầm của người Mỹ như “Search and Destroy” tạm dịch là “Tìm Kiếm và Tiêu Diệt” đã bị chống đối gay gắt ngay tại Hoa Kỳ.  Khi người Mỹ đi hành quân họ vào làng mạc, họ không phân biệt được ai là Việt cộng ai không nên họ rất lúng túng, họ giết lầm cũng có nên ngay cả một số lính Mỹ cũng rất hoang mang và sợ hãi. Khi về Mỹ họ gia nhập các tổ chức cựu quân nhân chống chiến tanh VN, chính họ cũng lên án gay gắt cuộc chiến mà họ từng tham dự.
Từ đó, cả thế giới đã lên án cuộc chiến tranh, những phong trào chống chiến tranh Việt Nam tại Hoa Kỳ mỗi ngày mỗi lớn mạnh rồi lan đi khắp thế giới như Canada, Âu Châu, Á Châu. Cuối cùng chính phủ Hoa Kỳ mất sự hỗ trợ của người dân. Quốc hội Hoa Kỳ đã bỏ phiếu chống tất cả những sự trợ giúp cho miền Nam Việt Nam.  Và tất nhiên kết quả là Hoa Kỳ phải rút ra để miền Nam chiến đấu một mình và sụp đổ vì không có nguồn viện trợ trong khi Hà Nội vẫn tiếp tục được viện trợ gấp nhiều lần từ Nga Xô và Tàu.
Có thể nói Giáo sư Pierre Asselin là đại diện cho giới sử gia trẻ, trung thực, can đảm dám đi ngược lại những kinh điển của nhóm sử gia đàn anh, những người bị ảnh hưởng nặng nề của giới phản chiến để nghiên cứu sâu rộng hơn trong việc đem lại trung thực cho lịch sử và trả lại công bằng cho miền Nam Việt Nam.
                            Những bài tham luận từ nhóm giáo sư, nghiên cứu sinh trẻ từ trong nước.
                                         Thế Hệ Sử gia Kế tục về Chiến Tranh Việt Nam Của Hà Nội

Hầu hết người Việt Hải ngoại cũng như trong nước khi được biết về sự tham dự của một số thuyết trình viên từ trong nước, mọi người đều rất tò mò và muốn biết nhóm này nói gì và phản ứng của người tham dự ra sao? Một số những người tham dự từ cộng đồng người Việt khắp nơi đã được nhắn gửi, thậm chí có những người cung cấp rất nhiều tài liệu về đủ mọi lãnh vực với hy vọng người tham dự sẽ có đủ dữ kiện để phản bác những luận điệu tuyên truyền.
Hiểu được sự mong đợi đó nên nhóm người Việt hải ngoại tham dự đến từ nhiều thành phố: New Orleans, Dallas, Austin, Illinois, San Jose, Santa Anna, Washington DC, Boston…đã cùng nhau ngồi lại và chia người ra để tham dự ít nhất là 6 bài thuyết trình của nhóm từ Việt Nam gồm: 
 “Vai trò chuẩn mực của Báo chí Việt Nam Cộng hòa: Trường hợp Việt Nam hóa năm 1969” do Thanh Hoàng, nữ nghiên cứu sinh từ Đại học Khoa học Nhân văn TP HCM, Việt Nam, “Trận Đánh Hamburger Hill Từ Cái Nhìn Của Người Việt Nam” do Tiến sĩ Lê Nam Trung Hiếu từ Đại học Huế, Việt Nam, “Thảm sát Mỹ Lai- Chất xúc tác cho Việt Nam Hóa” do nghiên cứu sinh Hùng Nguyễn từ Đại học Khoa Học Nhân Văn TP HCM, Việt Nam và William Doan, từ Đại học Columbia, “ Học thuyết Nixon và tác động của nó đối với mối quan hệ của Hoa Kỳ với các đồng minh châu Á  (Nam Hàn, Thái Lan và Philippines”.  Do nghiên cứu sinh Đỗ Diệu Khuê của Đại học Quốc gia Hán Thành.
Riêng đề tài được dành cho nguyên một phần của cuộc Hội Thảo là “Mặt Trận Hậu Phương Trong Chiến Tranh Việt Nam” tại phòng Heritage do Tiến sĩ Justin Heart của Đại học Texas Tech giới thiệu và điều phối, gồm 2 bài tham luận: ” Nền Giáo dục đại học của Nam Việt Nam Phát Triển Trong Bối Cảnh Việt Nam Hóa”  do nghiên cứu sinh Triệu Duy Hà thuộc Đại học Khoa học Nhân Văn TP HCM, Việt Nam, “ Ảnh Hưởng Của Phong Trào Phật Giáo Tới Sự Thất Bại của Kế Hoạch Việt Nam Hóa và Chính Quyền Sàigòn, 1969-1975” của Đại học Khoa học Nhân Văn TP HCM, Việt Nam.
Nhìn chung thì những bài tham luận này nói về những đề tài về Nam Việt Nam gồm mọi lãnh vực; các trận đánh, mặt trận tuyên truyền, sự tham dự của các đồng minh, sinh hoạt báo chí, đại học, cho đến những phong trào phản chiến và chống chính phủ tại hậu phương… giống như là họ đại diện cho miền Nam VN để đi trình bày về quan điểm của người Việt Nam (bao gồm cả Bắc lẫn Nam VN), những người đã đứng lên  chống xâm lăng trước là Pháp và sau là Mỹ . Nội dung trình bày không có những điều tuyên truyền trắng trợn nhưng hầu hết là nhắc đi nhắc lại một cách nhã nhặn hơn, có tham khảo hơn so với những luận điệu một chiều của CSVN và nhóm phản chiến.
Điều khác biệt rõ nét là những thuyết trình viên mà chúng tôi tạm gọi là “thế hệ sử gia kế tục về chiến tranh Việt Nam của Hà Nội” không giống những người CS thuộc thế hệ trước sang tham dự hội thảo nhưng chỉ nói tiếng Việt, phải có thông dịch viên, với bề ngoài còn rất xa lạ với thế giới văn minh. Những thuyết trình viên từ trong nước ra hôm nay là những người trẻ, rất trẻ, nói tiếng Anh khá lưu loát, với bề ngoài lịch thiệp trông còn có dáng ngây thơ và rất dễ gây cảm tình với người chung quanh. Khi bị chất vấn, nếu các em không trả lời được thì đều trả lời rất nhã nhặn là các em không biết. Một số người Mỹ tham dự cũng có những lời như bênh vực các em cho rằng Việt Nam giờ đã đổi khác và người Việt Nam hiện nay đang sống hạnh phúc. Lại có những người Mỹ trả lời ngay sau đó rằng nếu nói người Việt Nam đang sống hạnh phúc thì đó là nhận xét quá khái quát không nhìn sâu vào thực tại…
                                     Một đầu tư lớn cho một kế hoạch không nhỏ và lâu dài của Hà Nội
                                     Kinh nghiệm về chương trình dạy tiếng Việt tại học đường Hoa Kỳ

Chúng ta không cần phải lý luận xa xôi để có thể nhìn ra CSVN đã chịu đài thọ cho một phái đoàn trên dưới 10 người cho một chuyến đi nhiều ngày thì chắc chắn rằng đây là một đầu tư rất lớn cho một kế hoạch không nhỏ và lâu dài.
Những năm gần đây, sinh viên trong nước không mấy ai muốn học môn Sử nếu không bị bắt buộc. Do đó, có những năm sĩ số của các lớp Sử tại các đại học nhiều nơi đã xuống tới số 0. Lý do chính vì Sử học trong nước chỉ gồm tuyên truyền một chiều về chủ nghĩa Cộng sản và luôn dùng “chỉ đỏ xuyên suốt” tức là nhìn điều gì cũng lý luận theo lăng kính của chủ nghĩa CS, khiến sinh viên phải chán ngán. Hơn thế nữa, học Sử không kiếm được việc làm, ngoài việc làm thầy dạy Sử để phải nhai đi, nhai lại những điều dối trá cũ rich thì không gì nhàm chán bằng.
Nhưng chương trình giáo dục thì không thể không có môn Sử nên nhà nước CS phải tìm cách đưa ra một chương trình hấp dẫn hơn. Không có gì hấp dẫn cho sinh viên trong nước hơn là được xuất ngoại, nhất là xuất ngoại sang Mỹ. Vì thế, học Sử hôm nay lại có cơ hội hơn nhiều ngành khác cho sinh viên. Riêng với nhà nước CSVN lại có một đội ngũ trẻ, năng động đi ra ngoài tuyên truyền cho họ.
Xa hơn nữa, mới đây, tại Hoa Kỳ đã có những vận động ráo riết của cộng đồng người Việt cũng như một số các vị dân cử như nguyên Thượng Nghị sĩ tiểu bang California Janet Nguyễn cho chương trình dạy sử về nguồn gốc người Mỹ Gốc Việt tại các trường Trung và Đại học và đã đạt được kết quả. Đó là tin vui nhưng nếu cộng đồng người Việt chúng ta không có những đầu tư về nhân lực, thì chương trình này sẽ mở cửa cho “Thế Hệ Sử gia Kế tục về Chiến Tranh Việt Nam của Hà Nội” sang Hoa kỳ để giảng dạy cho con em chúng ta về lịch sử của chúng ta. Kinh nghiệm không lấy gì vui của chúng ta về chương trình dạy tiếng Việt tại học đường Hoa Kỳ tại những địa phương có đông người Việt sinh sống. Sau khi khổ công tranh đấu, cuối cùng các trường không tìm được thầy dạy từ cộng đồng chúng ta, họ đã phải mướn các giảng viên từ trong nước. Chúng ta ai cũng nhìn thấy rằng nếu trường hợp dạy sử cho con em chúng ta sẽ xảy ra như chương trình dạy tiếng Việt thì còn tác hại đến như thế nào?
Chúng ta phải làm gì?
Dự án đào tạo Hỗ Trợ Viết Sử VNCH và Bộ Sử về Người Mỹ Gốc Việt

Để đáp ứng với tình huống cấp bách này, hội Bảo Tồn Lịch Sử và Văn Hóa Người Mỹ Gốc Việt (VAHF), đã hội ý  và hợp tác với nhóm các viên chức VNCH qua vị đại diện là Ông Hoàng Đức Nhã và Giáo sư Tiến sĩ Tường Vũ  người đã nhận chức Giám đốc Trung Tâm Á Châu học của Đại học Oregon từ hơn 5 năm qua và là tác giả của 2 cuốn sách có cái nhìn khác biệt so với quan điểm của các sử gia kinh điển Hoa Kỳ ; Vietnam Communist Revolution: The Power and Limits of Ideology (2017) và Paths to Development in Asia (2010). Chương trình hợp tác gồm 2 phần; một là Hỗ trợ Viết Sử VNCH và hai là hoàn thành Bộ sách sử về Người Mỹ Gốc Việt để đưa vào các trường học Hoa Kỳ và thế giới.
Ông Hoàng Đức Nhã đại diện cho nhóm các cựu viên chức của VNCH những người đã và đang có những nỗ lực tổ chức và tham dự nhiều cuộc hội thảo của các Đại học Cornell, Berkeley, Oregon…trong gần 10 năm qua để nói lên tiếng nói của VNCH, điều mà các sử gia Hoa Kỳ phần đông đã bỏ quên, và CSVN luôn tìm cách lập lờ đánh lận con rằng  miền Nam là tay sai của Mỹ nên không có tiếng nói , họ mới là đại diện của người Việt Nam (!). Riêng hội VAHF đã sinh hoạt sang năm thứ 16 với mục đích đưa môn Sử học về nguồn gốc Người Mỹ Gốc Việt vào các Đại học và đang làm việc với 4 Đại Học UT Austin, Rice University, University of California, Irvine và Texas Tech. Hội đã sản xuất phim VIETNAMERICA và hoàn thành chương trình Oral History trên thư khố online và Youtube với trên 4 triệu người xem.
Theo như dự tính thì chương trình hỗ trợ viết sử VNCH trong vòng 5 năm (2020-2025) sẽ được trao cho một tân tiến sĩ (postdoc) nghiên cứu về Lịch sử Việt Nam và VNCH để trình bày hàng năm tại hai Hội thảo Sử học quan trọng nhất nhì tại Hoa Kỳ liên quan đến Việt nam: Vietnam Center/Texas Tech University và Society for Historians of American Foreign Relations (SHAFR). Nhiệm vụ của tân tiến sĩ còn bao gồm việc mời gọi ít nhất là 2 thuyết trình viên để cùng tham dự..
Riêng về dự án viết Bộ Sử cho người Mỹ Gốc Việt để cung ứng cho các trường Trung và Đại học cũng kéo dài 5 năm. Sẽ có nhiều đồng tác giả, và sẽ có một chương trình làm việc với cộng đồng “Community Outreach” để được hỗ trợ tài liệu, tinh thần cũng như tài chánh hầu có thể hoàn tất một cách tốt đẹp. Ông Hoàng Đức Nhã đã chia sẻ: “Phía CS Việt Nam có kế hoạch lợi dụng những cuộc hội thảo này để trình bày những luận điệu sai lầm và thiên lệch, thậm chí bóp méo sự thật. Nếu chúng ta không tham dự để trình bày và chất vấn họ tại những hội thảo này thì chúng ta sẽ lỡ cơ hội nói lên sự thật và quan điểm của chúng ta về lịch sử VNCH với giới giáo sư, sinh viên, khảo cứu viên, Mỹ và ngoại quốc và thế hệ hậu duệ của chúng ta ở hải ngoại và ở trong nước”.
Chúng tôi sẽ tiếp tục làm việc với các thành viên của hai dự án nói trên và sẽ thông báo tới độc giả với hy vọng chúng ta cùng góp một bàn tay. Cộng đồng chúng ta không có chính phủ, chúng ta không có kinh phí, chúng ta chỉ có những người có tâm huyết bỏ thì giờ và công sức cho những việc hữu ích chung. Nếu được cộng đồng chúng ta hỗ trợ, chắc chắn chúng ta sẽ thành công.
Mong lắm thay!
Triều Giang (05/2019)
image.png
Hình trên: Buổi tiệc tại phòng khánh tiết Trung tâm Văn hóa Quốc tế của Đại học Texas Tech. Hình dưới: Một số người Việt Nam chụp hình kỷ niệm sau buổi chiếu phim và thảo luận về phim VIETNAMERICA
image.png image.png image.png
Hình trái: Vinh danh người chết: Tiến sĩ Jim Recker , sáng lập viên Vietnam Center mới qua đời năm ngoái. Hình giữa và phải: Nút cài áo hình chim ưng được tặng cho tất cả cựu quân nhân Mỹ, Việt.   
  
 image.png image.png image.png image.png
 Ban Điều hành Vietnam Center hiện tại và nối tiếp, Từ trái: Giáo sư Tiến sĩ Ron Mailam, Tiến sĩ Steve Maxner, Tiến sĩ Justin Heart, Tân Tiến sĩ Justin Simundson.

image.png image.png image.png image.png image.png
                                                         
 HÌnh trái: Giáo sư Tiến sĩ Goerge Herring. Hình cực phải; Giáo sư Tiến sĩ Lloyd Gardner, thuộc nhóm kinh điển, chống chiến tranh VN. Hình giữa là 3 cuốn sách mà hai ông đã đề nghị đọc nếu muốn tìm hiểu về chiến tranh VN. Cuốn đầu nói về người Mỹ tham chiến tại VN là sai lầm, cuốn giữa nói về tâm trạng người lính Bắc Việt, cuốn cuối nói về tâm trạng người lính Mỹ. Không thấy có cuốn nào nói về tâm tình người lính miền Nam VN.
image.png image.png image.png image.png
Nhóm nghiên cứu sử trẻ có cái nhìn trung dung, không chịu ảnh hưởng của nhóm sử gia kinh điển: Từ trái, Giáo sư Tiến sĩ  Pierre Asselin thuyết trình về đề tài “Hiểu kẻ thù, Chìa Khòa Chiền Thắng Của Hà Nội”, Tiến sĩ  Martin G. Clemis, nghiên cứu sinh Uyển Nguyễn, Tiến sĩ Marc Gilbert, trình bày về sinh hoạt của các cố vấn Mỹ và chương đình bình định và phát triển nông thôn.
image.png image.png

 Từ trái: Buổi cơm trưa đầu tiên tại phòng Petroleum với diễn giả Dương Vân Mai Elliott về đề tài:” Những Bi Quan và Lạc Quan của Các “Think Tank” trong Chiến Tranh Việt Nam”

image.png image.png image.png
Ông Phan Nhật Nam, Ông Hoàng Đức Nhã điều phối buổi thuyết trình của Ký giả Vũ Thanh Thủy, Ông John Hòa, giám đốc Chương trình Liên lạc Cộng đồng của hội VAHF, nhà Sản xuất Nancy Bùi, và Bs. Phạm Đức Vượng, chủ tịch Tập Thể  Cựu Chiến sĩ VNCH Hải Ngoại. 
image.png image.png image.png image.png
Tiến sĩ Tường Vũ, giám đốc Trung tâm Á Châu học tại Đại học Oregan, cựu Tổng trưởng Hoàng Đức Nhã, Viện trưởng Học viện Cảnh Sát Qốc Gia Trần Minh Công , cựu Tổng trưởngThương Mại và Kỹ Nghệ  Nguyễn Đức Cường. 
image.png image.png image.png
Từ trái: tổng trưởng Kinh tế Phạm Kim Ngọc, Thứ trưởng Canh Nông và  Trần Quang Minh, Gs.Tường Vũ điều phối buổi thảo luận về phát triển kinh tế của miền Nam VN trong thời Việt Nam Hóa.
 
image.png image.png
Từ Từ trái : Hùng Nguyễn từ Đại học Khoa học Nhân văn TPi HCM, William Đoàn, Đại học Colimbia, OlliSitonen, Đại học Helsinki, Thụy sĩ (Ảnh của Bs. Nguyễn Linh Huy, Boston) Kyle Host, diễn giả tự do, và Thùy Dung Trương, Đại học Hamburg, Đức
image.png image.png image.png
Triển lãm về Sự có mặt của quân đội Canada trong chiến tranh VN (Hình của Bs. Nguyễn Linh Huy, Boston)
image.png image.png image.png
Từ trái: Ông bà Bác sĩ Nguyễn Linh Huy chụp hình kỷ niệm với hai người Canada phụ trách triển lãm, Uyển Nguyễn, cựu TT. Nguyễn Đức Cường, Cựu TT. Phạm Kim Ngọc, Tiến sĩ Ron Milam, Tiến sĩ Tường Vũ, ký giả của VIETV phỏng vấn Tiến sĩ Milam,
image.png
Nhóm người Việt hải ngoại tham dự Hội thảo chụp hình kỷ niệm trước khi chia tay. (Ảnh của Hoàng Đức Nhã)