Quân trường, có ai nói vui bao giờ? Những anh em trai trẻ một thời bắt đầu làm lính
nơi quân trường, cứ phải vừa ách ê một hai ba bốn vừa phải hát “thao
trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đỗ máu” một cách khô khan cằn cỗi và
công việc thì chạy không kịp với thời gian đong đưa. Ai tìm đâu cho ra
được nụ cười mà nói vui với vẻ cho đời một chút thảnh thơi, thoải mái?
Sáng mờ mờ tinh sương đã ơi ới nhau thức dậy mà vật lộn đến đêm tối.
Người ta hết sức khắc nghiệt bắt làm đủ thứ trên đời. “Quân lệnh như
sơn” ai dám nhúc nhích mà nói qua nói lại! “Thi hành trước, khiếu nại
sau” ai dám chần chờ mà hỏi tới hỏi lui. Ăn uống, không kịp ăn uống. Đái
ĩa cũng không kịp đái ĩa nữa là. Gần như không một ai có dư chút thì
giờ để lên được nửa câu vọng cổ “ôi nhìn trời hiu quạnh…” mà than trời
thở đất. Cả ngày, quần quật một cách vội vàng mà kỹ thì hết sức là kỹ
những công việc chà láng giao thông hào, vệ sinh doanh trại, vệ sinh cá
nhân, gọn gàng chỗ ăn chỗ nằm, mau mau lót bụng lót dạ một cái gì, quân
trang quân dụng đi bãi, ngủ gục nghe giảng chiến thuật, “tùng thiết”
chạy hộc hơi, leo trèo trên thang cao, bò trườn dưới đất nóng, nhảy chạy
đoạn đường chiến binh, bắn đùng đùng đạn mã tử điếc tai, chùi súng,
khám súng bở hơi tai, đánh giầy bóng lộn, chùi bút nịt sáng lạn…Bung
việc ra là ngủ, là ngáy ngay mà chờ tiếp tục ngày mai như mọi ngày.
Đúng, anh em bạn của chúng ta từ đâu đâu về ban đầu lạ, sau là chiến
hữu, thường cùng nhau tả oán “nỗi đau không rời”, rằng: “quân trường là
lò luyện thép, nơi huấn nhục đời người, địa ngục đọa đầy thân xác, trung
tâm tàn phai tuổi ngọc…”. Cuộc đời luôn luôn có hai mặt. Hai mặt là đen
với trắng, phải với trái, buồn với vui…trong cái đau khổ có cái hạnh
phúc; trong nước mắt có nụ cười. Cho nên “có một điều chắc chắn là không
có một điều gì chắc chắn hết”. Chính vì vậy, nơi quân trường dẫu là “lò
luyện thép”, là “nơi huấn nhục đời người” vân..vân…người ta vẫn bắt gặp
những nụ cười “cười sằng sặc”, “cười toe toét miệng”, không phải nụ
cười “cười ra nước mắt”. Tôi, đời trai thời chinh chiến đã qua nhiều
quân trường, nhưng kỷ niệm những nụ cười “cười sằng sặc”, những nụ cười
“cười toe toét miệng” thì ở quân trường Trường Bộ Binh Thủ Đức là đáng
nhớ nhất và đáng nói tới nhiều nhất.
Mấy
tháng trước mới vừa đi chơi với mấy thằng bạn nối khố thời học Trung
Học Phan Bội Châu Phan Thiết, Chu Văn An Sài gòn, đứa nào đứa nấy chải
chuốt lắm! O bế tới, o bế lui vẫn là cái đầu. Cái đầu, đứa thì tóc để
“một mái”; đứa thì bờm xờm “hippi”; đứa thì tóc “tém đuôi vịt”; đứa thì
“demi court”…Ai mà làm hư cái đầu thì “chết với tao”. Thằng Nghê, người
cùng xóm với tôi ở Đức Long, cái thằng đeo lon Chuẩn Úy chưa ấm ấm cái
vai thì đã chết ngayngày đầu tiên ra trận ở Hòa Tân,Gò Công đã gây lộn
và “từ” ông Tư Thâu đã “hớt bậy hớt bạ cái đầu tao dưỡng gần hai năm
nay”. Còn ông Bình, cái ông nhát gái phải mất tiền bao bạn bè uống nước
rau má thời học Chu Văn An thì lúc nào cũng xênh xang quần áo. Vải phải
hàng Anh Quốc và luôn luôn áo bỏ trong quần, tay áo cài khuy
“manchette”. Anh ta thường bảo với bạn bè rằng “ai mà làm hư cái “plis”
quần của tao như kêu cha tao mà chữi”. Vậy mà bây giờ, tôi lại gặp mấy
đứa tụi nó, đứa nào y như đứa nào “đầu giống Ông Thầy Chùa”, còn lòi
chình ình mấy cái thẹo to quá là to, dấu vết hồi nhỏ đánh lộn nhau. Quần
áo của hết thảy tụi nó đều thùng thình thụng thịnh lại thêm cát bụi
quân trường không sạch sẻ chút nào, nhìn thật “không giống ai”. Giày thì
giày “Botte de Sault” vừa xấu xí lại vừa nặng nề. Da thịt đứa nào y như
đứa nấy đen như Người Thượng Rhadé, Djarai. Gặp nhau, ai lại không
cười!? Có điều, tụi nó cười tôi biết “cười ra nước mắt”. Còn tôi, tôi
“cười sằng sặc”, “cười toe toét miệng”. Tôi có bao giờ quan tâm ăn mặc,
chưng diện đâu mà có cái hư, có cái mất mà giận, mà buồn, mà tức người
ta? Dù là kiểu cười nào, tôi dám cả quyết, dám cam đoan ông bà nào, già
trẻ nào nhịn mà không cười, dù nhếch môi thôi, tôi cũng xin bái phục làm
sư phụ có công lực thượng thừa đến mức có mắt mà không nhìn thấy gì
hết, không cười. Và một khi nhiều đại đội ngang dọc đụng với nhau, những
Sinh Viên Sĩ Quan mới mẻ, quân phục còn lượm thượm, người ngợm còn
nhếch nhác, thân trai còn“liễu yếu đào tơ” vừa đi theo nhịp đếm “một,
hai, ba bốn” vừa cứ hùng dũng nhưng yếu xìu “dù ngàn hiểm nguy quyết
chí. Một lòng thề luôn nêu danh “Sinh Viên Sĩ Quan Thủ Đức” hùng anh”
hay “đường trường xa muôn vó câu bay dập dồn. Đoàn hùng binh trong sương
lướt gió reo vang” hay “cố lên, cố lên, dù nhọc nhằn, da chan mồ hôi
pha máu hồng viết thành sử xanh”, ai tôi không biết, tôi không cười,
không chịu nổi…
Bởi
vì, cái non choẹt, cái vụng về, cái xô bồ của những người lính mới tò
te nầy, ai nhìn mà không cười cũng là lạ, nhất là cho những ai đoạn
đường mình mới đi qua. Nói gì những ai ngoài kia, ngoài bốn ụ đất cao to
và dài một chiều dài các tuyến A, B, C. D của nhà trường, có biết gì
đời lính đâu thì họ cười lăn cười ngả là cái chắc. Chỉ mới ngày đầu ở Vũ
Đình Trường được giới thiệu các ông Sĩ Quan Đại Đội 37, Tiểu Đoàn 3
cũng đã muốn cười mà không dám cười rồi. Ai đời một ông Đại Úy sẽ là Đại
Đội Trưởng của mình cao thì cao lêu nghêu mà hai chưn lại nhỏ quá là
nhỏ như hai ống thổi lửa mà dài cũng dài thiệt. Đàn bà chắc chắn ổng sẽ
được danh “trường túc bất tri lao”. Còn đàn ông, ổng được gì nhỉ? Chắc
chỉ được anh em tặng liền cho một cái tên, đúng hơn là một bí danh “Đại
Úy Cò” là đúng hơn hết. Đứng kề bên ổng là ông Chuẩn Úy vừa xấu trai chi
lạ lại vừa thấp lè tè quá sức. Chuẩn Úy đứng gao lắm cũng chỉ ngang
nách “Đại Úy Cò” mà thôi. Về sau Sinh Viên Sĩ Quan Đại Đội 37, nhất là
Trung Đội 3 của ổng ban cho ổng một biệt danh là “Chuẩn Úy Lùn Gieo Máu
Lửa”. Không xa ông Đại Úy với ông Chuẩn Úy, một ông Thiếu Úy sau là
Trung Đội Trưởng Trung Đội 2 của tôi, miệng dù ngậm kín cách mấy, người
ta cũng thấy ổng bị sứt môi trên. Ổng dính ngay cái tên “Thiếu Úy Không
Môi Mép”. Tại sao đặt ổng là “Thiếu Úy Không Môi Mép”? Mấy anh hiểu
chuyện trả lời: “Có 3 cô bạn thợ may “tìm bạn bốn phương” trong báo Tiền
Phong được 3 anh. Một anh “không có chưn đứng trong xã hội”. Một anh
“không có môi mép với người ta”. Một anh “không khả năng ăn nói với đời.
Hóa ra, anh “không có chưn đứng trong xã hội” là người chỉ có một chưn.
Anh “không có môi mép với người ta” là người bị sứt môi trên. Anh
“không khả năng ăn nói với đời” là người mắc tật “ngọng”. Một khi cả ba
ông đứng trước hàng quân của đại đội, tiếng xì xào như làn gió rít, anh
em thường cười khúc khích. Cười khúc khích không phải cái trời sinh ra
cái gì cho mấy ổng, mà cười khúc khích là cười cái các ổng ưa ta đây mà
huênh hoang, huếch hoác như hề. Và khi “tan hàng, cố gắng” thì cười khúc
khích thành “cười sằng sặc”, “cười toe toét miệng” cũng chẳng có lạ
lùng gì.
Ai
bảo quân trường không có nụ cười? Đại đội của tôi có một anh gốc Nghĩa
Quân, không nhớ chắc tên, có thể là Trí, người Phú Yên chạy chọt làm sao
mà làm được chức Thư Ký Đại Đội. Khỏe thì có khỏe thiệt, nhưng bị “dũa”
dài dài. Cho nên, tôi cũng “đếch” nhận ba cái “chức sắc” trốn đi bãi
đó, nói gì đến lo với lót, chạy với chọt mà mất công mất của lại mất
danh . Trí mắc một thứ bệnh trời ơi đất hỡi là “Trĩ”. Trí phải chịu chết
cái tên danh chính,ngôn thuận là Trí Trĩ. Trí Trĩ đi tới đâu, người ta
cười đến đó, cười ngặc nghẽo, cười lăn cười lóc, “cười sằng sặc”, “cười
toe toét miệng”. Có ai cười cái bệnh của anh ta đâu? Thương và đau giùm
cho ảnh không hết! Ngay cả anh ta diễn tuồng loay hoay như đàn bà đẻ,
như thằn lằn đứt đuôi. Khi đi, Trí cứ ịn ngón tay trỏ vào đít sợ “con
trê” nhảt tọt ra. Khi đánh máy thì ngồi nhấp nha nhấp nhỏm kiểu nước
lụt, sợ đau cái trĩ dưới xương khu. Người ta cười là cười ảnh sợ gì mà
sợ đến són đái, sợ đến rịn cứt ra quần. Mấy lần bị Đại Úy Cò xì nẹt, nói
theo tiếng Pháp là “s’enerve” thì ba hồn chín vía của ảnh chạy trốn đâu
mất tiêu, chỉ còn một chút tỉnh táo mà nói “tao đi thay quần”. Người ta
cưòi bể bụng với Tùng Lâm, Thanh Việt nhưng chắc không ai mà không cười
đến chết đi được khi thấy Trí Trĩ lúc bấy giờ đang “đau khổ vì bịnh
trĩ”! Đại đội 37 của tôi có 141 Sinh Viên Sĩ Quan mà có, nếu tôi không
quên, chỉ 5 cái cầu tiêu vừa cho đại tiện vừa cho tiểu tiện. Cùng thức
một lượt, cùng “đi cầu” một lượt tránh làm sao không sắp hàng rồng rắn
mà chữi nhau như hàng tôm hàng cá! Anh trong cầu chưa kịp rặn của quý ra
thì mấy anh ở ngoài đã la ơi ới “cái thằng ĩa gì mà ĩa lâu như rùa”.
Anh chàng Thọ, Thọ Quốc Gia Hành Chánh, có tên Thọ Dâm Dục không nén
nổi, đành “phẹt” ra cái quần treillis cho xong nợ đời mà “đụ má, tao ĩa
đầy quần rồi”. Đằng kia anh chàng Nghi, người Nùng ở Đức Trọng, Tuyên
Đức kẹt đái, đái bậy vào người đứng trước để khỏi chờ mất công. Không
may bị Thiếu Úy Lượng, Trung Đội Trưởng Trung Đội I bắt được và phạt
Nghi chạy 30 vòng sân đại đội, vừa chạy vừa la to “tôi không bao giờ
phóng uế bừa bãi nữa”. Mấy đứa anh em chúng tôi người trong cuộc, dù
đang dầu sôi lửa bỏng với cái bụng là “vùng xôi đậu” cũng phải “cười
sằng sặc”, “cười toe toét miệng”. Cái cảnh đứng chờ đái, ĩa trong Trường
Bộ Binh Thủ Đức có lẻ nặng nề, éo le hơn những quân trường tôi đã đi
qua. Ai mà nhìn vào hoạt cảnh lúc đó, không tức, không giận không buồn
cười quá sức thì đúng là người sắt đá, vô tâm, vô trí.
Trong
trường, các Sĩ Quan Cán Bộ, các bảng viết nguệch ngoạt mấy chữ treo
quanh vòng thành đại đội đều ra lệnh “cấm ăn quà rong”. Nhưng lệnh là
lệnh, dòm dáo dác không thấy ai thì mua cứ mua, có “chết thằng Tây
nào?”. Bởi trong quân trường, ai cũng biết rằng Sinh Viên Sĩ Quan đâu có
lúc nào dư thì giờ. Không “tiện đâu làm đó” thì dễ như chơi không kịp
giờ giấc mà bị “hít đất”, “nhảy xổm”, “trùm poncho”, “cúp phép”, “phạt
dã chiến”…Mấy ông Sĩ Quan Cán Bộ thì núp trong Văn Phòng Đại Đội nhìn
ra, chờ bắt “mấy con nhạn là đà”. Mấy anh chàng Sinh Viên Sĩ Quan thì
“ba chớp ba nháng” mua cứ mua cho thật mau mà “dzọt”. Nhưng anh bạn Mỹ
là Kỷ Sư Nông Lâm Sức; anh bạn Kham là Nhà Văn trẻ bị Đại Úy Cò bắt tại
trận, bị phạt “móc giò” mà uống, mà ăn. Móc giò là móc hai chân lên lan
can trước của doanh trại đại đội, đầu chúc xuống, hai tay chống. Anh Mỹ
thì “ăn cách nào không biết cho hết gói xôi”. Anh Kham thì “uống cách
nào không biết cho hết ly cà phê sửa”. “Quân lệnh như sơn”, ai dám cải.
Vậy mà anh em đang trong hàng ngũ đại đội sửa soạn đi bãi cũng khúc
khích. Cho đến khi Đại Úy Cò, Chuẩn Úy Lùn Gieo Máu Lửa không dấu được
cái cười xí xóa thì toàn thể đại đội “cười sằng sặc”, “cười toe toét
miệng” dù cười là cười vô tình trên sự đau khổ của hai người anh em bạn.
Những
ngày đi bãi học Chiến Thuật, học Tác Xạ, học Pháo Binh, học Chống Biểu
Tình…đâu có gì là lạ. Lạ là lạ những bài học “Trung Đội Tấn Công”, “Đại
Đội Lục Soát” vân..vân…có phe ta, phe địch “oánh” nhau dữ dội bằng đạn
mã tử kêu chạch chạch, bốp bốp… cũng tơi bời khói lửa. Thọ Dâm Dục to
con lớn xác nhất của đại đội và Thọ Luật Sư thì yểu điệu thục nữ như cô
gái Kim Long, Huế lúc nào cũng xin cho được làm Việt Cộng. Làm Việt Cộng
là làm giả VC núp trong bóng mát vài lùm cây nơi bãi tập khô khan, nóng
cháy. Các anh em còn lại làm Lính Việt Nam Cộng Hòa đang hành quân dưới
trời nắng chết cha và mệt thì cũng mệt chết cha. Những “chàng tuổi trẻ
vốn giòng hào kiệt” là những Sinh Viên Sĩ Quan đóng giả Lính Việt Nam
Cộng Hòa tấn công, chiếm mục tiêu, lục soát mấy ổ phục kích của VC là
Thọ Dâm Dục, Thọ Luật Sư…thì đấm giả, đánh giả. Nhưng mấy thằng chịu
nắng chịu mưa đâu để mấy thằng núp bóng an nhàn, “ngồi mát ăn bát vàng”
khỏe re, nên đấm, đánh liên miên những cái đấm giả cũng hơi mạnh tay,
những cái đánh giả cũng hơi mạnh tay như đánh thiệt. Thọ Dâm Dục ăn to
nói lớn, la lên “đụ má, sao đánh nhiều quá dzậy”, “sao đánh đau quá
dzậy”. Thọ Luật Sư thì “răng đánh mạnh rứa”, “răng thụi đau rứa”. Mấy
anh đóng giả Lính Việt Nam Cộng Hòa “cười sằng sặc”, “cười toe toét
miệng”.
Trong
quân trường, nhất là Trường Bộ Binh Thủ Đức, chuyện phạt là thường.
Phạt đủ thứ, đủ kiểu, đủ điệu. Phạt cá nhân. Phạt tập thể. Một bữa từ
Bến Nọc vào Cổng Số 9, Đại Đội 37 của tôi mới vừa tấp trái vào Nhà Bàn
ăn cơm trưa trể. Vì sơ xuất của anh Tuần Sự Đại Đội cũng như anh Đại Đội
Trưởng Tác Chiến mà đại đội bị phạt tập thể ngay nơi sân trước Nhà Bàn,
dưới ánh mặt trời chói chang. Tất cả bị bắt nằm xuống, mặt nhìn lên
trời, súng để bên phải, ba lô gối đầu, hai chưng gát “chữ ngũ”, miệng
phải hét tới hét lui cả 10 phút “mặt trời đã ngủ yên, xin mặt trời hãy
ngủ yên”. Mình không thấy mình “không giống con Giáp nào” nhưng liếc
trái, liếc phải thấy anh em mình đó, không nhịn được cười. Rồi, tất cả
hét thì hét nhưng “ăn gian” được một chút thời gian là cứ cười tủm tĩm,
cười kín hai hàm răng. Dĩ nhiên là đừng để mấy ông Sĩ Quan Cán Bộ thấy.
Thấy là chết cha, ai không biết! Khi được đứng dậy, anh em nghe nhiều
tiếng cười “cười sằng sặc”, “cười toe toét miệng”, tiếng cười của mấy
cô, mấy bà ở Khu Sinh Hoạt nằm bên kia đường. Chúng tôi, đâu có “mắc cở”
gì ba cái lẻ tẻ đó nơi quân trường. Ngay cả chúng tôi, nhiều người cứ
cười, cười hoài vì nó “ngộ”, nó “kỳ”, nó “mắc cười thấy mẹ”, huống gì
người ta, người ngoài, người đàn bà,con gái.
Hôm
học Tác Xạ, một anh bạn trẻ tên Bơ trong Trung Đội I vô ý một chút mà
quên “người đâu súng đó” đã bị Thiếu Úy Không Môi Mép phạt “súng cầm
tay” chạy 30 vòng sân đại đội, vừa chạy vừa la “súng là vợ, tôi không
bao giờ bỏ súng”. Anh em, người ăn, người uống, người lặt vặt chuyện nầy
chuyện kia để đi bãi, nhìn Bơ ai cũng cười quá trời. Cười to nhất vẫn
là ông to con lớn xác nhất Thọ Dâm Dục. Ổng cưòi dai, cười dài, cười
lâu, “cười sằng sặc”, “cười toe toét miệng” còn một chút nữa là bị Thiếu
Úy Lượng của Trung Đội I bắt ra phạt rồi. Mới mấy hôm trước đó, Thọ Dâm
Dục đã bị cả một tiểu đội Huynh Trưởng đứng giăng hàng phạt “30 cái hít
đất”. Hít cách nào cũng bị mấy Huynh Trưởng chê là “ngỗng đầu”, “ngỗng
đít”, dợt cho nhừ xương vẫn chưa đếm tới số 2, số 3 được, nói gì tới “30
cái hít đất”. May có mấy Siêu Huynh Trưởng đằng xa kia đi tới, mấy
Huynh Trưởng nầy cũng ngán nên mới buông tha. Về Đại Đội, gặp chúng tôi,
dù Thọ Dâm Dục đang thở không ra hơi, cũng ráng chữi thề “đụ má, mấy
thằng Huynh Trưởng nó chơi tao quá mậy”. Đại Úy Cò nghe được, bắt phạt
Thọ Dâm Dục “30 cái nhẩy xổm”. Thử tưởng tượng, Thọ cao to, mập mạp,
“nhớt” lại vụng về nữa… mà nhẩy xổm thì “không giống ai” một chút nào.
Trông ổng hai tay bắt chéo đằng trước, hai ngón tay cái và trỏ nắm chặc 2
cái lổ tai mà nhảy cao một chân đá ra trước một chân xoạt ra sau một
cách nặng nề, ô dề và thở ột ột như heo bị khiêng đi làm thịt. Không ai
nhịn được cười, không phải cười một người bạn bị nạn mà cười hoạt cảnh
Thọ Dâm Dục đang diễn tuồng quá vụng về, dở ẹt.
Trong
đại đội, có anh cao to quá là cao to như Thọ Dâm Dục nhưng cũng có anh
thấp lùn, bé tí tẹo như Cường Con, gốc Giáo Sư ở Huế, lúc nào cũng phải
đi sau cùng hàng quân của đại đội. Súng M.16 mà Cường Con mang, mũi đã
là đà trên mặt đất rồi. May là súng M.16, nếu là súng Garant thì Cường
Con chỉ có nước cầm, vác, bồng mà thôi. Đi Đoạn Đường Chiến Binh, anh em
trong đại đội lúc nào cũng phải “cười sằng sặc”, “cười toe toét miệng”
hai ông nầy. Ông Thọ Dâm Dục thì bị móc, bị kẹt, bị xước khi bò, trườn,
lết qua lớp kẽm gai ngoằng nghoèo, chằng chịt, thấp chủn. Ông Cường Con
thì khổ lắm mấy cái hầm,mấy cái hố “đào chi mà đào sâu dữ rứa, mần răng
bò lên”. Anh ta cứ trèo lên, tụt xuống đỏ cả mặt, tía cả tai, mồ hôi
thắm ưới bộ treillis. Tưởng “dã tràng xe cát Biển Đông”, nhưng cuối cùng
Cường Con cũng bám víu mà lên được. Lên được, Cường cũng ráng nở một nụ
cười, dù là nụ cười méo miệng và cũng ráng mở miệng, dù là mở miệng nói
gỡ gạc: “quân trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu”.
Chuẩn
bị cho ngày Lễ Gắn Alpha, anh em bảo nhau xuống Khu Sinh Hoạt ở Tuyến B
mua băng vệ sinh. Ai cũng biết, sân Vũ Đình Trường toàn đá dăm, sạn
nhỏ, quỳ gối xuống đó đầu gối chỉ có “chết tới bị thương”. Hôm đó, tôi
cũng xuống mua 2 cái, một cho tôi và một cho Sơn Rhadé. Mấy cô Nữ Quân
Nhân đứng kế bên đang mua viết, giấy chắc để viết thư cho “bồ” lên tiếng
chọc quê “chỉ ở nhà, sao anh biết chỉ “có” mà mua nhiều dữ vậy”. Tôi,
thằng mặt lì, ba hoa nói: “biết mấy cô ở đây “có”, tôi mua biếu vậy mà”.
Trời ơi! Mấy cổ “cười sằng sặc”, “cười toe toét miệng”. Đằng kia, mấy
ông bạn đồng Khóa 6/70 của chúng tôi đang đứng mua ba cái lăng nhăng
băng vệ sinh cũng “cười sằng sặc”,“cười toe toét miệng”. Trong Trường Bộ
Binh Thủ Đức, từ Cổng Số I đi vào, qua khỏi Đồn Quân Cảnh 301 một đoạn,
nằm phía tay phải là dãy nhà Nữ Quân Nhân. Mấy cô Nữ Quân Nhân ở Lễ Gắn Alpha đâu không biết, chứ ở đây các SVSQ coi chừng bị
“ăn thịt”, bị “nuốt” như chơi. Anh em cứ bảo nhau“chốn ấy hang hùm, chớ
mó tay”. Có ai nghĩ ra, Trường Bộ Binh Thủ Đức toàn “đực rựa” mà tôi
dám cam đoan, tôi dám “cá” với bất cứ ai không nơi nào trên đất nước
Việt Nam Cộng Hòa xài nhiều băng vệ sinh hơn.
“Đi
Dây Tử Thần”, có nhiều anh em ngán biết mấy. Quân trường, ngán chừng
nào, Huấn Luyện Viên lại bắt tập nhiều chừng nấy. Ở Trường Bộ Binh Thủ
Đức, dây tử thần là hai sợi dây thép căng cứng, được treo từ một đồi cao
chót vót, chạy qua một hồ nước thăm thẳm phía dưới và tới một cột xi
măng xa xa đằng xa. Sinh Viên Sĩ Quan 2 tay cầm 2 cái róc rách, người
Huấn Luyện Viên đẩy nhẹ xuống. Gió thổi vù vù nghe rào rào bên tai. Ngọn
cờ đỏ phất, mình thả tõm xuống. Có người không lội được. Có người đau
mình đau mẩy. Nhưng khốn nạn nhất vẫn là mấy anh bị “thằng nhỏ tao đau
quá” mà vừa đi vừa bụm nó lại. Nhìn mặt méo mó, nhăn nhó của họ, anh em
với nhau thông cảm hết sức. Nhưng bảo những ông vui tính đừng “cười sằng
sặc”, đừng “cười toe toét miệng” thì khó như bắt thang lên hỏi ông
trời.
Ở Khu Tiếp Tân nằm bên phải Cổng Số
I, sát Tuyến B những ngày Chủ Nhật thật ồn ào, thật náo nhiệt và vui thì
hết nói. Tiếp Tân là tiếp thân nhân, bè bạn của các Sinh Viên Sĩ Quan
không đi phép hay bị cúp phép. Dĩ nhiên, Trường Bộ Binh Thủ Đức mà những
người vào học là những thanh niên tuổi đời còn trẻ trung hung sức.
Người thăm nhiều nhất vẫn là những nữ sinh viên, nữ học sinh là những
người tình thề non hẹn biển. Mỗi cặp tình nhân chọn cho mình một chốn
bình yên mà tâm sự chuyện tình hai đứa mình. Họ rủ nhau cùng hát bài ca
Xích Lại Gần Anh Tí Nữa của Mặc Thế Nhân: “xích lại gần anh tí nữa đi
em. Sao em ngồi xa anh thế?...Nào có ai đâu mà em ngại, để rồi ngồi xa
cách nhau!”. Vì quá say sưa đồng ca, anh với em đã không để ý đến mấy
thằng bạn tinh nghịch đang nhìn mình mà chúm chím cười. Ngày tàn một
Buổi Tiếp Tân, về doanh trại đại đội, mấy thằng bạn “quỷ tha ma bắt” đó
kể toẹt loẹt chuyện đời ngoài Khu Tiếp Tân hồi sáng ra mà “cười sằng
sặc”, “cười toe toét miệng”.
Ai bảo quân
trường không có niềm vui và nụ cười? Vui là vui thiệt, không phải “vui
là vui gượng kẻo là”. Cười là cười thiệt, không phải cười là “cười ra
nước mắt”. Những trưa trong Đại Giảng Đường, thường được Sinh Viên Sĩ
Quan gọi là Đại Hỏa Lò, vì nó nóng sao mà nóng quá sức! Không nóng sao
được, một nhà lớn thì lớn thiệt mà làm bằng tôle với tôle đem nhốt cả
mấy trăm mạng người vào những trưa Hè nóng như thiêu như đốt của cái
nắng “Trên Đồi Tăng Nhơn Phú”. Ai còn tâm dạ đâu nữa mà “nhìn đồi xa xa
muôn trùng. Mịt mờ xanh xanh cây rừng. Ghìm chặt súng hát ru cuộc tình
mù sương” của Vũ Đức Sao Biển ở Đại Đội 33, Tiểu Đoàn 3 Khóa 6/70!? Vậy
mà, nhìn tới nhìn lui cũng thiếu gì những người anh em bạn vốn thiếu ngủ
hết sức, đang há hốc mồm ngáy to hơn cả người ta “hò kéo gỗ” không màng
thế sự chung quanh. Nhịn gì nhịn, mình cũng không nhịn cười được. Ngủ
thì ngủ đi một cách im lặng, ai đời còn nầy còn kia để bị “bể dĩa” mà
lảnh 30 cái hít đất, 30 cái nhảy xỗm cho vỡ mộng “Giấc Nam Kha”. Một anh
bạn trẻ “ăn chưa no, lo chưa tới” nhất của Đại Đội 37 của tôi “lì” hơn
hết. Vào, lúc nào cũng ngủ. Ảnh ngủ mê ngủ mệt đến mơ về quê Bình Định
của mình mà đi chơi với bồ, mà đánh lộn với tình địch, mà bị Quân Cảnh
“hốt”…mà la hét như ngoài mặt trận. Dầu trong giờ “Liên Hợp Binh Chủng”
nhưng hằng mấy chục người kế bên cũng phải “cười sằng sặc”, “cười toe
toét miệng”, ồn ào biết mấy. “Anh bạn trẻ “ăn chưa no, lo chưa tới nhất
của đại đội” nhận lệnh “Phạt Dã Chiến” một tuần. Tất cả Sinh Viên Sĩ
Quan hiện diện được cảnh báo rằng “học là học nghiêm chỉnh, không thì
đeo cánh gà”.
Một chiều chập choạng tối, tiểu đội của tôi di chuyển từ doanh trại đại đội gần Cổng Số 9 qua Vũ Đình Trường để bàn giao gác Tuyến D, Khu Thiết Giáp. Khi đến Trung Nghĩa Đài, thì bị một tốp đàn anh Khóa 5/70 chận lại, phạt mấy chục cái hít đất. Quân trường đừng hỏi “tại sao mà phạt”. Bởi vì, quân trường là nơi huấn nhục, nơi trui rèn kỷ luật quân lệnh, nơi luôn luôn bắt phải chịu áp lực khốc liệt cho chiến trường ngày mai xông trận. Mấy anh Huynh Trưởng Khóa Đặc Biệt nầy, chúng tôi đã biết quá trời, quần mấy tên Trung Ngha Đài Khóa 6/70 Thuần Túy chúng tôi không một chút nương tay. “Hít thì hít”, mấy anh em chúng tôi nói nhỏ với nhau và cũng không quên nháy mắtngầm bảo với nhau là “nằm”. Chỉ đủ cho Huynh Trưởng đếm “một” và “hai” thì cả chục chúng tôi “nằm vạ”, nhất định không đứa nào lên. Huynh trưởng la, hò, hét, thét…mệt quá, làm gì bây giờ. Huynh Trưởng đành để mấy thằng “lì như trâu” đi đổi gác cho kịp giờ. Thật mà nói, chống tay xuống đây toàn là đá, sỏi, sạn nhọn hoắc mà hít đất với trên người mang nón sắt, súng, đạn, ba lô, mùng, chăn… thì không những đổ mồ hôi mà còn đổ máu là cái chắc. “Huynh trưởng bỏ đi, thì đàn em bỏ phạt, đứng dậy “cười sằng sặc”, “cười toe toét miệng” một cách hả hê. “Đi Tuyến”, nhà trường có 4 tuyến A,B,C,D như đã nói ở trên, nhưng Tuyến C nằm ngang Cổng Số 9 nhìn ra ngoài kia Bến Nọc mịt mùng là tuyến được lưu ý về an ninh nhiều nhất. Những ngày không đi bãi hay không được đi phép, Trung Đội 2, Đại Đội 37 của tôi mỗi khi làm tạp dịch ở đây, ông bạn Luật Sư Thọ được đề cử làm đại sứ, liên lạc với Đại Úy Án để hùn tiền mua nước ngọt, bánh, kẹo, cà rem, xôi, chè…ổng bán. Mua nhiều, Đại Úy mới làm lơ, mới cho cho xong công tác mà Đại Úy kê ra dài thoòng loòng thấy mà sợ. Thầy cười, trò cười, ai ai cũng cười, “cười sằng sặc”, “cười toe toét miệng”, vui vẻ cả làng! Nếu không mua thứ gì của Đại Úy bán thì làm hoài, làm miết cũng không bao giờ xong mà còn bị phạt nữa là chắc. Tội, một Đại Úy quân trường “nghèo rớt mồng tơi” phải làm ba cái chuyện con con như vậy. “Làm ba cái chuyện con con như vậy”, vậy mà chúng tôi quý mến ông vô cùng. Quý cái tính ngay thẳng, chân tình và vui hết sức của Đại Úy.
Trong quân trường Trường Bộ Binh Thủ Đức, người Sinh Viên Sĩ Quan đang chịu gian đầy và đang cảm nhận con đường sẽ đi trong tương lai, thì họ cũng quý niềm vui hết sức mà lúc nào có được nụ cười là cứ “cười sằng sặc”, “cười toe toét miệng” làm hành trang xung trận ngày mai. Tôi viết bây giờ chuyện hồi đó cũng đã 41 năm rồi, bạn bè người còn còn rất ít, người chết “Vị Quốc Vong Thân” thì vô số kể. Xin những oan khiên các anh về bên kia thế giới được cởi trói mà thảnh thơi, thanh nhàn! Xin những bạn bè có những ngày vui, buồn nơi quân trường xưa còn hiện tiền hay đã quá vãng hãy xuề xòa, xí xóa với nhau để những nụ cười hiếm hoi, hiếm muộn hồi đó cho đến bây giờ vẫn chưa hề suy suyển và sẽ không bao giờ suy suyển./.
NGUYỄN THỪA BÌNH
No comments:
Post a Comment