Đời,
thường trớ trêu, nghịch lý, éo le. Có những điều mình không nghĩ tới,
nó cứ xẩy ra. Những điều mình tin là nó sẽ xẩy ra thì y như rằng không
xẩy ra, không bao giờ xẩy ra. Tôi chưa bao giờ nghĩ là mình sẽ đi Cảnh
sát thì nó dẫn mình vào Học viện Cảnh sát Quốc gia ra làm ông Biên tập
viên mà mấy ông Tây gọi là Rédacteur, mấy ông Mỹ gọi là Redactor. Biên
tập viên, tôi chưa có một chút khái niệm nào. Cũng có lúc mơ làm thầy
giáo Trung học nhưng được Bộ Quốc gia Giáo dục cho về dạy Anh văn dưới
Vĩnh bình thì co đầu rút cổ chạy. Giặc giả tùm lum, “thôi thi đi lính
cho chắc ăn”, nhưng khi đã đậu khóa I Chiến tranh Chính trị thì bỏ xứ
hoa Anh đào không thèm lên. Về Phan thiết cho gần nhà, ông Cò Nhị đưa
làm Trưởng trại Tạm giam. Đặc biệt qua Sắc phục có mấy tháng mà phải vào
Thủ đức học hơn 11 tháng mấy ngày. Trung tá Nguyễn Mâu dắt về lại Cảnh
sát Đặc biệt Bộ chỉ huy Cảnh sát Quốc gia Khu 2 ở Nha trang. Tháng 12
năm 1971, Trung tá Nguyễn văn Long đưa lên Gia nghĩa giữ chức Phụ tá Đặc
biệt tỉnh Quảng đức. Từ đó, những vật đổi, sao dời tiếp theo, tiếp
theo:
Tôi
lên Quảng đức vào một xế chiều ngày mùa Đông. Gió Bấc thổi mạnh. Rừng
xôn xao. Bụi hồng bay mù mịt. Trời lạnh buốt. Chiếc xe Cảnh sát phủ màu
đất đỏ bazan. Bốn anh lính “đón Đại úy” đứng đó, hiên ngang đội rét
trong chiếc field jacket dầy bụi phong trần, tay cầm M.16. Cảnh vật vô
tình, lạnh lùng! Chiếc Cessna chở một minh tôi từ Nha trang đến đây, bỏ
tôi đó, bay đi và đi mất. Trung sĩ Nguyễn văn Sơn lái xe. Đi theo “đón
Đại úy” có Thiếu úy Lê văn Thuận, Trung sĩ Đặng văn Be và Thượng sĩ
Nguyễn văn Thọ. Xe lên dốc xuống đồi, chạy qua phố chợ nhỏ nhoi, vắng
vẻ, đìu hiu! Vài người Thượng mập mờ quảng đồi xa. Tôi khe khẻ trong
lòng: “Người xót xa buồn lắm không? Không, sao lại bỏ phố lên rừng? Đi
làm mây cao trên đèo vắng. Trời vào Đông có chạnh lòng”. Bộ chỉ huy Cảnh
sát Quốc gia nghèo nàn. sơ sài, lượm thượm nằm chơi vơi trên lưng đèo
đường vào Quận Khiêm đức. Bên trong kia, Đại đội Hành chánh Tiếp vận của
Đại úy Trương minh Dũng, người để lại 2 bài thơ “Tuý Ca” và “Bỏ Phố Lên
Rừng” tôi vừa đọc một đoạn ở trên. Đại úy Dũng, sau lên Thiếu tá, làm
Tham mưu trưởng Tiểu khu, thay thế Thiếu tá Quãng bị Tướng Toàn đổi “đi
trong vòng 24 giờ”. Từ những năm 1972 đến tháng 4 năm 1975, bà con ở đây
thường nghe ổng hát “Nầy, nầy rót đi em từng chén buồn cay đắng. Cho ta
cười trong nỗi xót xa đưa. Rót nữa đi em. Em rót đầy ly cạn. Say giùm
ta, như từ thuở bao giờ...” với cái áo treillis hay civil, luôn luôn
bạch ngực, tay cầm chai rượu, lon bia mà người thì cuồng say, chếnh
choáng. Có khi “Sao người bỏ phố lên rừng. Sao người không nói ngập
ngừng đắng cay. Mình tôi còn lại chốn nầy. Nửa đêm thức giấc, lòng ray
rứt buồn” ông Dũng vừa là người lính vừa là nhà thơ, khuôn mặt đìu hiu
nỗi buồn chơi vơi, chênh vênh cái tính nghệ sĩ của ổng, ai cũng mến, ai
cũng thương cái tên “Dũng thuốc lào”. Tôi thì có nhiều kỷ niệm với ổng
khi là Đại úy, lúc là Thiếu tá. Cuối năm 1972, một ông Trung sĩ, lính
của ổng lái chiếc Honda 68, nghêng ngang chạy lạng quạng như chọc giận
trước xe Cảnh sát của tôi. Tức quá, tôi rượt, đánh anh ta té lăn lóc
dưới đất, ngay bên đồn Quân cảnh mà ổng chỉ “làm gì nóng dữ vậy?”, không
hề kẻ cả với tôi một tiếng nào. Một đêm văn nghệ trước Tòa Hành chánh
Tỉnh vào dịp tất niên năm Nhâm tý, đầu năm 1973. Đại úy Trương minh Dũng
bấy giờ đã là Thiếu tá Tham mưu trưởng Trương minh Dũng, tay xách chai
Hennessy cổ lùn, tay cầm ly rượu đến trước mặt tôi “Nầy, nầy rót nữa đi
em từng chén buồn cay đắng. Cho ta cười trong nỗi xót xa đưa. Rót nữa đi
em, em rót đầy ly cạn. Say giùm ta, say giùm ta như từ thuở bao giờ...”
Tôi, ổng nốc “một trăm phần trăm”. Kế bên, Trung tá Tỉnh trưởng kiêm
Tiểu khu trưởng Nguyễn hữu Thiên và Trung tá Cao khánh Sang, Chỉ huy
trưởng Cảnh sát Quốc gia cười, vỗ tay. Người người hô “dzô, dzô”, vỗ tay
theo. Vậy mà, tôi tệ quá, không nể ổng một chút nào. Khoảng giữa năm
1974, tôi cứ “húc” đại 2 chiếc Jeep lùn A2 mới toanh có gắn antenna dài
thường thược, một của ổng và một của Thiếu úy Phố, Trưởng đồn Quân cảnh
Điều hành ngang tàng đậu bít khúc đường khu chợ trước tiệm tạp hóa Cao
Nguyên, không cho xe ai qua lại. Tôi nghe giong rặt Huế: “Thằng nào đó?”
Thiếu tá Dũng hỏi. Thiếu úy Phố trả lời “Đại úy Sáu”. Chắc thương tình
thằng nhỏ ba gai, ba trợn, ba búa, ông Tham mưu trưởng cũng xuề xòa, xí
xóa cười bỏ qua. Thiếu tá Trương minh Dũng còn biệt tài kể chuyện tiếu
lâm, nhất là những câu chuyện “cười ra nước mắt” của hai ông Tuyên úy
Phật giáo và Tuyên úy Công giáo. Đặc biệt là Công giáo của cha Cường
biệt danh “Cường chịu chơi”. Một khi ngồi vào bàn ăn có Thầy hay có Cha
dù chay hay mặn bất kể, Thiếu tá của ta cứ phạng ba cái chuyện “kể tầm
bậy trúng tầm bạ” mấy ông nhà Chùa, mấy ông nhà Giòng. Ai cũng cười chết
cha mà ổng thì phớt tỉnh ăng lê, từ từ rút cái “điếu cầy” lận trong
bụng ra, thong thả nhận thuốc, rít một hơi dài thật dài, thả hồn vào cõi
Ta bà. Bây giờ Thiếu tá Trương minh Dũng, lính chuyên nghiệp mà ca sĩ
thì tài tử và nhà thơ cũng tài tử đã ra đi, đi vào cõi thiên thu ngàn
trùng ngày 20 tháng 12 năm 2008 bên kẻ thù Cộng sản Việt nam. Đã hơn 2
năm qua rồi, người ta những đồng bào sống ở Gia nghĩa, ở toàn tỉnh Quảng
đức, lây lan đến cả Ban mê Thuột thuở đó, chắc chắn rằng, ai cũng xót
xa, bùi ngùi, thắp nén hương cầu nguyện anh vào cõi hư vô bình yên trăng
sao, hoa bướm. Nói gì những người lính chiến hữu của anh, họ đau nỗi
đau của anh, người chiến sĩ “Bán kiên cung kiếm bằng thiên túng” mơ đời
hải hồ, lãng tử “Nhất trạo giang sơn tận địa duy”. Tôi thương tiếc anh,
kính trọng anh, một chiến sĩ Việt nam Cộng hòa tài năng văn võ, đức độ,
khoan hòa mà nghệ sĩ thì vô cùng.
Đêm mới tới, Thượng sĩ Trang sĩ
Minh “đãi cơm Đại uý Trưởng F”. Anh ta khoe có bà con với Đại tá Trang
sĩ Tấn, đang là Chỉ huy trưởng Cảnh sát Quốc gia Đô thành. Như hồi tù
Cộng sản những năm 1982 đến 1984 ở trại giam Z.30C Hàm tân có ông Đại úy
lùn xũn người Huế tên Ngô đình Cát, không dây mơ rễ má gì với gia đình
Ngô đình Diệm cũng vơ một nắm vào “là cháu của cựu Tổng thống”. Sướng
miệng, anh kể thành tích của mình như thể hù, dọa mà nhắn nhe với tôi là
coi chừng, rằng “tôi đã bắn hụt Đại úy Phụ tá Đặc biệt Đặng vân Anh,
nhưng cũng đã bắn nát được phòng ngủ của ổng và nát cả văn phòng
G.Nghiên cứu, G.yểm trợ. Chuyện tương tự như vậy hồi ở Kontum, cho nên
tôi phải “đi đầy” xuống đây”. Thượng sĩ Minh người Nam, tính hay khoe
khoan, ưa làm kẻ cả. Mỗi tối, nhà của anh ta là “Tụ điểm Thời sự” cho
những anh em vào gác đêm trà dư tửu hậu, cà kê dê ngỗng những chuyện của
Sếp. Ảnh có thói hay cải, không thích tuân lệnh, kẻ cả và ta đây “30
năm trời kinh nghiệm” nên cao ngạo, trịch thượng. Các ông cựu Trưởng
phòng Cảnh sát Đặc biệt Bùi Bình, Đặng vân Anh dám làm gì ổng đâu? Kiểu
cách nầy, hiện tượng nầy hầu như toàn thể lính lác trong đơn vị, hoặc để
lộ ra hoặc che đậy, dấu diếm. Nào ông trưởng G Thẩm vấn Nguyễn đức
Nhuận trách móc, chê bai “làm bở hơi tai, mờ hai mắt, các ông lớn, nhỏ
quá có biết gì đâu!”. Nào ông Lê văn Thuận, cựu Trưởng chi Cảnh sát Quốc
gia Quận Kiến đức coi trời bằng vung, “các ông Trưởng G, Trưởng F là
cái thá gì”. Hai ông người Thượng: Y’ Gê đã được cử làm Trưởng ty Cảnh
sát và K’Sim làm Trưởng ty Nội an Tỉnh Quảng đức nếu không đập tan loạn
Fulro chiếm Toà hành chánh Tỉnh tháng 10 năm 1964, cứ nhùng nhằng nhũng
nhẵng công vụ một cách miễn cưỡng, vô trách nhiệm. Các anh, chị em khác
ăn theo, học đòi, coi thường cấp chỉ huy. Các ông trước gọi là Phó ty
Đặc biệt, sau gọi là Trưởng phòng Cảnh sát Đặc biệt hay cuối cùng là Phụ
tá Đặc biệt là Phủng, Bình, Anh “cả nể”, “e dè”, “ngán” cứ để mỗi nhân
viên của mình thành một ông vua, một tập đoàn ông vua “được chân lân đến
đầu” theo tháng ngày trôi qua. Ông nào muốn “giong” về quê thăm vợ thăm
con, thăm bồ thăm bịch của mình vài ngày thì cứ giong. Ông nào đã uống
“ông già chống gậy” đả quá, cứ xách súng ngắn, súng dài bắn chơi đỡ
ghiền, hăng máu, bắn luôn xếp như chơi. Ông nào thiếu tiền, đứng làm
“chủ chứa” ngay trong đơn vị, kêu anh em bỏ gác, đánh phé, kiếm chút
tiền còm xài qua tháng. Ông nào muốn làm, muốn nghỉ, muốn đi trể về sớm
thì cứ tự nhiên như người Sài gòn. Ông nào muốn đôi co lớn tiếng, múa
tay, đá chân, phùng mang, trợn mỏ với Sếp thì cứ, có chết thằng Tây đen,
Tây trắng nào đâu!? Tôi, không thể và không để vậy mà coi cho được. Ông
Minh, tôi phạt gác đêm 15 ngày liên tục, không cho đi phép 2 năm liền,
đổi đi Kiến đức làm lính cho Thượng sĩ Phan văn Lựa để “dằn mặt” những
ai chẳng “coi”, chẳng biết “nể” cấp chỉ huy là gì. Ông Nhuận, tôi rút
súng Browning bạc nhỏ chút xíu tịch thu được của thằng Phi luật tân thời
làm Trưởng trại Tạm giam ở Phan thiết, định bắn dọa thì ổng đã són đái
mà muôn năm chừa tật xấu, răm rắp theo lệnh Đại úy. Cái súng nầy, tôi đã
tặng cho Đại úy Hồ Hối, Đại đội trưởng Cảnh sát Dã chiến Lâm đồng khi
di tản từ Quảng đức về Bảo lộc. Còn ông Thuận, muốn làm thì làm, muốn
nghỉ thì nghỉ. Không sao. “Bất cứ ai vắng mặt bất hợp pháp, đều nhận
lệnh phạt”. Thượng sĩ Thuận một lệnh phạt không sợ, hai lệnh phạt chưa
sợ, ba lệnh phạt đã rung rinh. “Lệnh phạt thứ tư, tôi sẽ sa thải anh”,
ông Thuận sau nầy trở thành một nhân viên gương mẫu, “kính và mến Đại úy
Phụ tá”. Có Trưởng F. Đặc biệt nào trên toàn cõi nước Việt nam Cộng hòa
bắt lính của mình phải “chùi súng”, phải bị “khám súng” phải “hít đất”,
phải “nhảy xỗm” và trưa nắng phải ra sân tập cơ bản thao diễn “một,
hai, ba, bốn, dậm chưng tại chỗ”, “chào tay”, “súng chào bắt”, “súng cầm
tay bắt”, “trái, phải, trước, sau quây”? Tôi. Chỉ có tôi thằng ngang
tàng, lì lợm, ít biết sợ ai, nhưng biết trọng kỷ luật, trật tự mới làm
như vậy thôi. Những chuyện chướng tai gai mắt kỳ dị như thế làm sao tồn
tại dưới hai con mắt của tôi, cái thằng trời sinh ra tính bướng bỉnh,
tính chưa biết run. Mười một tháng Quân trường Quang trung, Thủ đức dạy
tôi phải làm như vậy trong một tập thể như vậy mới được như vậy về sau
đâu ra đó, đâu vào đó. Kỷ luật. Kỷ luật. Có ai bắn tôi đâu? Nhân viên có
tệ như xửa như xưa nữa đâu? Tôi biết ở đây, cái Thị xã nhỏ không lớn
hơn vòng đai chiến đấu của một Tiểu đoàn lính. Tiệm ăn, duy nhất chỉ có
một tiệm Tàu Đất của ông bà ngườì Tàu trôi sông, lạc chợ lên đây. Cho
nên có lạ gì đâu, bữa cơm đầu tiên của tôi lại ở nhà người lính của
mình. Anh em đến “chào Đại úy Trưởng F” vừa để nhìn mặt cấp chỉ huy của
mình có “mét” như Lưu Bị, có “đỏ” như Quan Cộng và có “đen” như Trương
Phi không để mà ăn hiếp. Xí xô xí xào các giọng Nam, Trung , Bắc, Rhadé,
M’nông...kể rằng “ai đã lên đây, đã ở đây đều là dân “tứ chiếng”, thành
phần “vô kỷ luật”, “nghèo”... Tứ chiếng vì có đủ anh hào ”bốn vùng
chiến thuật”. Vô kỷ luật vì ba gai, ba trợn, ba búa không ai thèm xài mà
quăng lên đây. Nghèo vì không có tiền “chạy” nên phải lặn lội đến đây
“đường không số, phố không đèn, mưa lầy, nắng bụi”. “Không quậy mới là
lạ”. “Nề nếp, khuôn phép mới là lạ”. Nếu nói có một Bộ Chỉ huy Cảnh sát
Quốc gia Tỉnh nào đặc biệt nhất nước Việt nam Cộng hòa thì đó là Bộ Chỉ
huy Cảnh sát Quốc gia Tỉnh Quảng đức và F. Đặc biệt thì F. Đặc biệt Tỉnh
Quảng Đức. Có những điều người ta nói thật, không ai tin bao giờ, còn
bị chê là láo, khoác lác. Có những điều người ta bịa ra thì nhiều người
khen hay còn cho là đáo để. Cho nên, chắc cũng có người gán cho tôi cái
tội “nổ như tạc đạn”. Không sao. Tôi có nói “gần 4 năm làm Phụ tá Đặc
biệt ở đây, tôi không dính dáng với ai một đồng cũng như không có tiền
đóng hụi sống, hụi chết cho ai một xu, chỉ có trời mới tin”. Đó là sự
thật một trăm phần trăm. Một phần tính bặm trợn mà lương thiện của tôi
người ta cho là ngu, một phần ở đây có cái gì mà ăn với uống, có chăng,
cái khố dơ của mấy anh Thượng che “cu”, cái xà rong mấy mụ Thượng dấu
“bĩm.
Người ta nói: “Quảng đức lớn không bằng ai, có gì mà làm?”
Xin lỗi. Ngành Cảnh sát Đặc biệt vốn đa đoan, lắm chuyện và ê hề rắc rối
thì nhỏ, lớn dù khác nhau cái bề thế nhưng giống nhau cái hậu trường
“Trận liệt”, “Địa phương chí” hết sức mệt. Mỗi tỉnh, nó có những cái
khó, cái khác nhau hoàn toàn, đố đâu giống nhau cho được. Ở Bình đinh
của ông Phan quang Nghiệp, ở Phú yên của ông Phạm đức Hoàng, ở Phan
thiết của ông Trần văn Thả hay ở Pleiku của ông Tạ văn Quờn, ở Khánh hòa
của ông Nguyễn văn Độ, ở Ninh thuận của ông Nguyễn văn Thắng...không có
ông K’Bi gốc người M’nông, Mạa hay K’ho làm Chủ tịch Hội đồng tỉnh, gây
khó chịu hết sức; Không có ông Dân biểu học lớp Ba “kênh xì po” lấy
oai, làm mệt anh lính “bảo vệ yếu nhân” và các ông Tỉnh trưởng, Cảnh sát
trưởng, F trưởng...; Không có những ông lính, những ông cảnh sát, những
ông công chức thường là lý do kỷ luật mà lên đây phá phách dữ; Không có
tỉnh Mondolkiri của Campuchia giáp ranh với Việt nam. để lại nhiều
phiền hà băng đường biên giới; Không có giàu kinh tế làm nghèo xơ nghèo
xác từ dân tới ông lớn, ông nhỏ chức quyền địa phương; Không có cột mốc
“Ba Biên giới” mấy ông Tây cắm dùi thời Pháp gọi là “Trois Frontières”
có ba mũi tên chỉ Vietnam, Laos, Cambodge ở ngả ba Dakson mà hiềm khích
liên tù tì chuyện đại sự quốc gia; Không có ông Trung sĩ An ninh Quân
đội Nguyễn đình Khôi bắt ông Đại tá Hồ Nghĩa thoái vị Tỉnh trưởng ngày 1
tháng 11 năm 1963; Không có “CIDG” là Civilian Irregular Defense Group
mà ta gọi là Dân sự Chiến đấu, Lực lượng Đặc biệt, Biệt động quân Biên
phòng trấn yên biên thùy Việt-Cambodge phiền nhiễu biết bao; Không có
“Fulro” viết tắt từ Front Unifié pour la Libération des Races Opprimées
nổi loạn, giết lính Quốc gia người Kinh, chiếm Toà Hành chánh Tỉnh Quảng
đức... vân vân và vân vân....làm sao nói cho hết?.
Tỉnh trưởng
kiêm Tiểu khu trưởng ngày tôi mới tới là Trung tá Hoàng công Duân thay
thế Trung tá Đặng hữu Hồng tử trận trên Quốc lộ 14, chặng đường Kiến đức
đi Đức lập. Đâu chừng một, hai tháng sau đó, Đại tá Phan đình Niệm thay
thế chức Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Tỉnh Quảng đức. Đại tá Niệm,
bình dân mà cương quyết, tình cảm mà nguyên tắc. Ổng thường chào tay
trước khi mình kịp chào và chữ ký thì to dềnh dàng và rõ ràng ràng Phan
đình Niệm. Một hôm Đai úy Srưn, người Thượng, Tiểu đoàn trưởng một Tiểu
đoàn Địa phương quân ở Quận Kiến đức gặp Đại tá Phan đình Niệm, xin bảo
lảnh mấy người bà con bị G. Đặc biệt Quận Đức lập bắt vì tội hoạt động
cho Việt cộng. Tôi được gọi vào Tòa Hành chánh Tỉnh hỏi ý kiến. Tôi nói
“nếu Đại úy làm giấy bảo lảnh, “cam kết” những người bà con của mình
không liên hệ với Việt cộng và “bảo đảm” sau nầy họ không có hoạt động
cho Cộng sản. Nếu được Đại tá phê thuận thì, tôi thừa lệnh thả họ về”.
Đại úy Srưn chối bải hải và “cám ơn Đại tá, cám ơn Đại úy” ra về. Một
buổi họp Phụng hoàng Tỉnh dưới sự chủ tọa của Đại tá Đạm, Phụng hoàng
Khu II. Một anh Chuẩn úy bước vào, tay cầm chắc nịch một trái lựu đạn
M.26 không còn chốt an toàn và sẳn sàng cho nổ bât kỳ lúc nào. Ảnh dính
theo Đại tá Niệm không xa một lóng tay. Ai dám bắn, lỡ lây Đại tá thì
chết. Hôm đó Chuẩn tướng Nguyễn hữu Hạnh, Tư lệnh Phó Quân đoàn II về
Tiểu khu thanh tra việc phòng thủ. Một bữa cơm được dọn ra mời Chuẩn
tướng và phái đoàn. Ai cũng run trong bụng, ăn với uống cái gì, cứ chăm
chăm dòm anh Chuẩn úy có rục rịch cái gì là “dzọt” lẹ mà trốn, mà chạy
mà cũng có thể nát thây tại hiện trường một cách oan uổng như chơi. Cuối
cùng anh ta bị xô xuống đồi Tiểu khu và bị bắn chết. May ảnh không phải
là đặc công đặc kiết gì của Việt cộng cả, không thì tướng, tá, úy...còn
mạng nào sống. Cũng tội cho anh ta, người bắt phải nhận “quầy hàng quân
tiếp vụ” mà sạch bách “hàng quân tiếp vụ”. Chuẩn úy xin không nhận. Đại
tá bắt phải nhận. “Quân lệnh như sơn”, anh Chuẩn úy chết vì người ta
“ăn” không chừa thứ gì trong kho “quân tiếp vụ”. Nhận chức Trưởng Quầy
hàng Quân tiềp vụ để mà chết à! Hóa ra, không nhận cũng chết và chết
thảm nữa chớ. Phòng họp hôm đó có đúng con số kỵ 13, 13 người, dĩ nhiên
có tôi, Trưởng F Đặc biệt là một hội viên. Xin kể: Đại tá Đạm Phụng
hoàng Khu 2, Đại tá Niệm Tỉnh trưởng, Trung tá Sang Chỉ huy trưởng Cảnh
sát Quốc gia, Thiếu tá Quảng Tham mưu trưởng Tiểu khu, Đại úy Đề Trưởng
ty An ninh Quân đội, tôi Trưởng F Đặc biệt, Đại úy Tư Trưởng phòng 2,
Đại úy Văn Trưởng ty Chiêu hồi, Duyệt, Tỉnh đoàn trưởng Xây dựng Nông
thôn, Kỳ Chỉ huy phó Thám sát Tỉnh, Đại úy Khen Phụng hoàng Tỉnh, cô thư
ký đánh máy và một người nữa quên tên, có thể là Đại úy Khánh, Quận
trưởng Quận Khiêm đức trước khi lên Thiếu tá hoán chức Quận trưởng với
Thiếu tá Hiếu. Có phải tại con số 13 hay tại hai đêm trước đó có một con
đỏ, cũng có người gọi là con mang chạy vào Bộ chỉ huy Cảnh sát Quốc gia
Tỉnh, băng qua Toà Hành chánh Tỉnh, bang xuống Tiểu khu? Bởi chỉ cách
đó vài năm, cũng một chú đỏ lang thang ngoài khu phố chợ mà hai dẫy phố
và chợ Gia nghĩa bị tiêu tùng. Trung tá Sang tin dị đoan biết mấy, đã áo
dài khăn đóng cúng với kiến rồi, vậy mà vẫn không thiêng. Một phen Đại
tá Phan đình Niệm hết hồn! Anh trung sĩ lái xe Đại tá đứng bắn “kẻ mưu
loạn” bị thương cụt cái chưng.
Đại tá Phan đình Niệm về
Bình định làm Tư lệnh Sư đoàn 22, thay thế là Trung tá Cao văn Chơn.
Trung tá Chơn quá tĩ mĩ, chi tiết, không được một chút nào rộng rãi như
Đại tá Niệm. Chỉ một cái lệnh hết sức tai hại mà còn một chút nữa chết
biết bao nhiều người vô duyên, vô lý, trong đó có nhóm thằng tôi. Một
sáng tại Tiểu khu, ông bạn Tư, Thiếu tá Trưởng phòng 2. Ông Chỉ huy phó
Thám sát Tỉnh Nguyễn văn Kỳ và tôi, trưởng F. Đặc biệt thuyết trình
không giống nhau địa điểm xuất hiện Đội công tác B.10 của Phạm Trị ở Đạo
nghĩa mà “các ông đơn vị trưởng phải đích thân đi phối kiểm”. “Đích
thân đi phối kiểm” để Phòng 2 Tiểu khu phải đi đoong một ông Thiếu tá,
một ông Trung sĩ và thêm vài người lính nữa bị thương. Hên, tôi cả chục
người và Thám sát Tỉnh cũng chừng ấy người không sao cả. May là ông
Trung tá Cao văn Chơn nầy chỉ làm ông Tỉnh võn vẹn đúng một tháng thì bị
“tống cựu” để Trung tá Nguyễn hữu Thiên được “nghinh tân” thay thế.
Trung tá Nguyễn hữu Thiên người Nam, dễ dãi, vui vẻ, hiền hòa. Làm việc
với Trung tá Thiên, tôi có hai việc đáng nhớ: Việc thứ nhất là chủ tiệm
tạp hóa Khải hoàn cũng là một “huyện đề” bị G.Công tác của Thiếu úy Lang
bắt. Lẻ ra, Phòng Cảnh sát Tư pháp của Trung úy Cơ làm việc nầy vì
thương gia nổi tiếng nầy ở đây đang “tố” xì phé. Ổng bị Cảnh sát Đặc
biệt bắt vì “tụ tập đông quá năm người”, tình nghi hoạt động chính trị.
Trung tá Thiên muốn ban “lệnh cấm cố đương sự với những cá nhân liên hệ
vào Đức xuyên”. Tôi cố thuyết phục rằng “vi phạm của các đương sự có
tính hình sự không nặng. Yếu tố chính trị không có và nếu có thì cũng
không đáng nguy hiểm đến nổi nhận lệnh cấm cố”. Tôi biết, ông nhà giàu
Khải hoàn không được lòng và vì sao không được lòng ông Tỉnh trưởng mà
còn chút nữa phải vào Đức xuyên “nằm ấp” nhiều năm biệt xứ. Việc thứ hai
là, khoảng 10 giờ sáng Chủ nhật ngày 28 tháng 1 năm 1973, sau Hiệp định
Paris chưa hơn một nửa ngày ráo mực. Trung tá Thiên gọi tôi qua Toà
hành Chánh, bảo “Anh ra Nghi xuân coi tụi thằng Thiện sao “loạn cào cào”
với mấy thằng trong rừng ra như vậy?” Tôi kèm theo một số lính Biệt đội
Cảnh sát Đặc biệt lấy từ Cảnh sát Dã chiến qua và lính Thám sát Đặc
biệt Special Reconaissance Unit, tiền thân của Đơn vị Thám sát Tỉnh
Provincial Reconnaissance Unit, thường gọi tắt là PRU lên đường. Rõ ràng
Đại úy Thiện, Chi khu phó Quận Khiêm đức đang bối rối, không biết giải
quyết làm sao. Lính Việt nam Cộng hòa, lính Việt cộng và dân ở đây đang
“ăn Tết” với nhau một cách thái bình. “Chết cha!”. Phải làm sao? Phải
rồi, “dụ khị” mà bắt về. Về G. Công tác lập biên bản: “một Đại đội Phó,
một Trung đội trưởng, một Y tá, một Truyền tin và ba khinh binh với 06
AK 47, 03 B.40, 01 K.54, 01 máy truyền tin, 10 lựu đạn nội hóa, 01
radio” Tìm Trung tá Tỉnh trưởng báo cáo, Trung tá Nguyễn hữu Thiên sợ vi
phạm hiệp định, tảng lờ, đi vắng. Gặp Trung tá Chỉ huy trưởng, Trung tá
Cao khánh Sang lúng túng, lo ngại “giao anh giải quyết”. Tôi cứ nghĩ
là, bên nào, không làm đúng “ngừng bắn tại chỗ “an in-place cease-fire””
và “các đơn vị quân sự ở nguyên vị trí “remain in-place”” là vi phạm
Hiệp định Paris phải được giữ lại và giao cho “Ủy ban Liên hợp Quân sự
Bốn bên “the Four-Party Joint Military Commission”” hay “Ủy ban Quốc tế
Kiểm soát và Giám sát “the International Commission of Control and
Supervision””. Hơn nữa, bảy người với súng đạn đầy đủ, ai biết họ tấn
công mình hồi nào? Đêm đó, Xã Đạo nghĩa bị đánh. Khắp nước Việt nam Cộng
hòa bị đánh. Ai tin tụi Việt cộng bao giờ? Tiền hung, hậu kiết, Tỉnh
trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Tỉnh Quảng đức, Trung tá Nguyễn hữu Thiên
“cấp Đại úy Sáu một Anh dũng Bội tinh Ngôi sao Đồng” đầu tiên trong năm
1973 của Tiểu khu Quảng đức. Trung tá Cao khánh Sang hết sợ Bộ tư lệnh
quở, không ngần ngại “khen Đại úy Sáu điếc không sợ súng”. Một sáng ngày
vào Thu nơi phi trường Nhơn cơ thuộc Quận Kiến đức, một chiếc C-47 hạ
cánh. Một chàng trai người Thượng hết sức gấp rút cỡi chiếc Honda 68 màu
đen trong bụng chiếc máy bay vụt ra. Đáng nghi ngờ! Đáng ngạc nhiên!
Một “Mission impossible?” Tôi rượt theo. Đương sự xả hềt ga chạy vào
hướng Bukso 3. Tôi cho G. Đặc biệt Kìến đức chặn đường y về. Chừng một
giờ sau, anh chàng vùn vụt chạy bất kể trở về đường cũ. Một cách phách
lối, ngang ngược, trịch thượng “các ông làm chậm công việc của tôi, các
ông chịu trách nhiệm”, “phi cơ đậu lại phi trường, chi phí bao nhiêu,
các ông phải cáng đáng”. Giận rồi, thằng máu anh hùng rơm của tôi nổi
lên “mầy không nói rõ ràng đến đây đi đâu, làm gì, với ai...tao còng tay
bây giờ”. Thượng sĩ Phan văn Lựa đem cái còng số 8 ra. Nhiều anh em sấn
tới. “Nói không, tao còng, nhốt ngay”, tôi lớn tiếng. Thấy không êm, nó
nói “em liên lạc với mấy Mục sư Tin lành. Không có gì khác”. Biết rằng,
tên nầy chẳng là Việt cộng, Việt gian, Việt lậu gì hết trơn, tôi tha
cho đi. Tôi có trình bày lại vịệc nầy cho Trung tá Tỉnh trưởng Nguyễn
hữu Thiên và Trung tá Chỉ huy trưởng Cảnh sát Quốc gia Trần ngọc Giang.
Hai ông đều giống nhau “tổ chức CIA hết trơn”. Bây giờ tôi nghĩ, trước
khi bỏ Việt nam Cộng hòa, Mỹ chắc chắn có gài người ở lại. Gài ai không
biết, nhưng các Mục sư người Thượng ở Cao nguyên thì chắc.
Tôi
không nhớ chắc ngày, tháng, có lẻ là cuối năm 1973 hay đầu năm 1974 gì
đó, Đại tá Phạm văn Nghìn từ Quân khu 2, được Trung tướng Nguyễn văn
Toàn cho về làm Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Tiểu khu Quảng đức,
thay thế cho Trung tá Nguyễn hữu Thiên tại sân chào cờ Toà hành chánh
Tỉnh vào một sáng trời Cao nguyên lành lạnh. Người ta nói với nhau:
“Quan Năm đi, Quan Sáu về” hay “tống cựu, nghinh tân Năm Ngàn, Sáu
Nghìn”. Đại tá Nghìn trông oai dõng, anh hùng và như thể ôm đồm đeo hết
gánh nặng chiến tranh Việt nam vào người. Ổng lúc nào cũng trực thăng vi
vút trên trời cao với truyền tin xè xè, nón sắt hai lớp chình chịch,
dây ba chạc nhà binh dềnh dàng, bi đông nước bên hông, lựu đạn trên
ngực, súng lục bên sườn, lính theo hầu và “escort” rườm rà, ai thấy cũng
khép nép, e dè. Nhưng “nước rặt mới biết cỏ thúi” hay “cháy nhà mới ra
mặt chuột”, ông bà ta nói đúng lắm. Trung tuần tháng 4 năm 1975, ổng
ngán Việt cộng “úp đồn” nên sau đó đã “dzọt” ngọt sớt về Lâm đồng, trốn
biệt tích. Không biết có rủ Trung tá Trần ngọc Giang, Chỉ huy trưỏng
Cảnh sát Quốc gia Tỉnh Quảng đức đi theo không mà Quảng đức đìu hiu
những ngày sắp chạy, không thấy ông nầy và cũng chẳng thấy ông kia? Nghe
nói hai ổng là ngưòi anh em cùng Khóa 4 Bis Cương quyết Thủ đức lên Đà
lạt học cùng thời Khóa 10 Trần bình Trọng Võ bị. Rất tiếc, có ông nhà
báo, có phải “nhà báo nói láo ăn tiền” và một ông pháo binh, pháo binh
mà dám nhận đã chỉ huy “chạy trốn” Việt cộng, làm như Tiểu khu Quảng đức
chết tiệt hết trơn, cả gan nói ông Đại tá đã ở lại tử thủ. Hồ đồ! Tôi
nhớ một lần được Đại tá triệu qua Toà Hành chánh Tỉnh, bảo “người ta báo
cáo ông Thiếu tá Quận trưởng Hồ viết Lượng đã cướp cà phê của ông Trần
trọng Lưu và vợ thì tranh đoạt mua bán, đầu cơ phân bón với dân. Đại úy
ra điều tra. Báo cáo ngay trong ngày”. Ổng đứng dậy, không bắt tay,
không một lời nào và kênh kênh thói người chỉ huy đầy quyền lực. Tôi
đứng nghiêm, chào tay và “tuân lệnh”, đi ngay. Tôi, tài xế và hai anh
lính hộ vệ mấy giờ sau đã đến Đức lập. Phải thật mau. Tôi vào Tư minh
gặp cha Thanh?, lên nhà gổ gặp đại diện ông triệu phú cà phê Trần trọng
Lưu, xuống chợ gặp chú Chệt dính dáng ba cái chuyện phân bón, đâu còn
giờ gì nữa mà vào Quận đường gặp ông Lượng. Về làm báo cáo, một báo cáo
không có lợi một chút nào cho ông Quận trưởng gốc “Cọp Ba Đầu Rằn” nầy.
Sau đó mấy hôm, cái tên, cái cấp, cái chức Thiếu tá Hồ viết Lượng, Quận
trưởng kiêm Chi khu trưởng Chi khu Đức lập bị xóa. Trung tá Nguyễn cao
Vực về thay thế cho đến hồi Quận Đức lập bị tụi Việt cộng đánh chiếm
ngày 9 tháng 4 năm 1975. Những tháng trong năm 1974, các tin tức liên
quan nhiều người trong Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Hành chánh Xã Đạo
nghĩa có tiếp xúc, tiếp tế cho Việt cộng được ghi nhận. Nhân Đại úy
Nguyễn văn Diệp, Chỉ huy trưởng Cảnh sát Quốc gia Quận Khiêm đức, nguyên
là Biên tập viên Khóa 3 Học viện Cảnh sát Quốc gia phàn nàn “cái ông Xã
trưởng Nguyễn văn Mao ỷ thế Thiếu tá Nguyễn văn Khánh, Quận trưởng Quận
Kiến đức kiêm Chi khu trưởng Chi khu Kiến đức, coi thường Cảnh sát.
Lính của tôi chận xe đò của ông ta lại khám xét, ổng có bao giờ ngừng,
cứ phăng phăng chạy luôn, có khi còn diễu cợt”. “Để tui”. Tôi nói mà
lòng vừa tức cái tên Xã trưởng nhà quê mà cũng giận cái ông Đại úy nhà
ta nhát gan mà bình thường, “mưu chước” sâu thăm thẳm lắm mà!. Đụng tới
mấy ông Hội đồng Tỉnh, Hội đồng Xã bị toi mạng như chơi. Biết mà! Tôi
làm phiếu trình xin bắt gần như toàn thể Ủy ban Hành chánh Xã và Hội
đồng Xã của Xã Đạo nghĩa lên Đại tá Tỉnh trưởng Phạm văn Nghìn thông qua
Trung tá Chỉ huy trưởng Trần ngọc Giang. Lệnh hành quân, công vụ lệnh,
Đại tá Tỉnh trưởng ký. F. Đặc biệt bắt trọn lõn cả chục tên “ăn cơm Quốc
gia, thờ ma Cộng sản” êm ru. Lạ, sau đó ông Quận Khánh thấy mình từ xa
đã chào, tới gần bắt tay. Ông Xã trưởng tơ lơ mơ, ngông nghênh của Thi
xã Gia nghĩa tên Xuân đã biết “lễ độ” mà khúm núm. Ông Trưởng ty Tài
chánh ỷ thế cầm “hầu bao” của Tỉnh mà lớn lối, đã biết sợ tội lem nhem,
bây giờ mềm mỏng một thưa Đại úy, hai thưa Đại úy. Ông Trưởng ty Xã hội
không rõ can cớ gì “biếu Đại úy cái mền Đại hàn, đắp ấm mùa Đông”. Ừ,
chắc ổng ngán đồ cứu trợ nạn nhân chiến cuộc không chân mà “chẩu” hết
chăng? Đời, cái nầy nó dính cái kia. Mấy ông quan cai trị cái xứ Đức lập
nhỏ nhoi mà giàu cà phê nầy liệu hồn, trái ý Cha là bị “bứng” ngay;
Không “có gì” với Tá của Tỉnh và Tướng của Khu thì “mất chức” là đương
nhiên, không vô tù là may. Thiếu tá Lượng chạy đâu cho khỏi nắng!? Báo
cáo của tôi chỉ là một trong nhiều cái cớ để mấy ông lớn có danh chánh,
ngôn thuận “nhổ” người ta đi mà thôi.
Nói tới Quảng đức vào cái
thời tôi làm việc mà không nhắc tới Dân biểu Vương sơn Thông là một
thiếu sót đáng phiền hà. Tôi lên đây đã có ổng và cuối cùng vẫn còn ổng.
Dân biểu Vương sơn Thông lúc nào cũng “diện” bộ râu và “kẻng” áo quần
theo “mode” kênh kênh của Phó Tổng thống Nguyễn cao Kỳ. Trước khi về đơn
vị Thị xã Gia nghĩa để “nhá”, bao giờ ông ta cũng gửi thông báo chỗ
nầy, chỗ kia. Tôi nhận một lần nhiều công điện, văn thư...của Bộ tư lệnh
Cảnh sát Quốc gia ở Sài gòn, của Bộ chỉ huy Cảnh sát Quốc gia Khu 2,
của Tỏa hành chánh Tỉnh Quảng đức và của chính văn phòng ông Dân
biểu...bảo “cần bảo vệ”. Chú Nguyễn văn Mùi của tôi được ủy thác lo công
tác “bảo vệ yếu nhân” cho ông Dân biểu thích làm “le” nầy. Dân biểu
Thông, người Bắc, thợ chụp hình, học lực Tiểu học. Vì một Tỉnh vỏn vẹn
bốn chục ngàn dân, đa số là sắc tộc thiểu số người Thượng với một nhúm
người Kinh không lưu luyến gì ở đây nên một người như ông Vương sơn
Thông có một chút giảo hoạt, đắc cử Dân biểu cũng không khó, không gì
lạ. Người ăn học, dẫu gì cung cách cũng có văn hóa. Ông Dân biểu nhà ta
bởi “cóc nhảy bàn thờ” nên cư xử dễ bị người ta ghét, chê là dân làng
chàng, lạng quạng. Tôi mấy lần không cho Trung sĩ Mùi làm nhiệm vụ một
người bảo vệ yếu nhân cho ông ta vì bị xử dụng như tay sai vặt. Ổng nói
với Bộ tư lệnh, với Tỉnh trưởng, với Chỉ huy trưởng rằng, thì, là “Đại
úy Sáu không hợp tác”. Thay người khác, ổng không chịu và nhứt nhứt “tôi
chỉ cần anh Trung sĩ Nguyễn văn Mùi mà thôi”. Mấy ông lớn “thôi kệ”.
Tôi bực, “kệ thì kệ” cũng chẳng chết thằng Tây nào. Có điều, không đúng,
không được. Không đúng, không được thì làm gì bây giờ!? Một hôm, trên
dốc lên chợ. ông Dân biểu đã xã “lù” nước xe ba gác của anh đổ nước
mưón, xém chút nữa đánh lộn với người cử tri hèn kém của mình. Coi được
không!? Hỏi ra, vì anh đổ nước đã không đổ nhà ông Dân biểu trước. Anh
đổ nước bảo “ai kêu trước, tôi đổ trước, ổng kêu sau, đổ trước sao được.
Dân biểu là cha sao? Muốn làm cha sao không vô nhà Giòng đi tu?” Có lẻ
như vậy mà Cha Thanh ở Đức Lập, cha Hạnh ở Gia nghĩa, cha Mauriceau
người Pháp bên giòng suối Đăk nông nói hoài: “Đại úy Sáu ra làm Dân biểu
đi, Cha ủng hộ cho”. Tôi đâm lo: “cám ơn Cha, con không làm được”. Ở
đây, tôi dám cả quyết là, nếu được các Cha đưa lên hay hạ xuống thì dễ
như trở bàn tay và chết cũng không khó như giỡ bàn chân. Dân biểu hay
biểu dân không phải nghề của mình, không dại dấn thân
Dĩ nhiên
còn rất nhiều chuyện, sao kể cho hết. Chuyện ông Hà thúc Trân, không
biết có bà con họ hàng gì với Đại úy Hà thúc Nhơn ở bịnh viện Nguyễn Huệ
Nha trang hồi xưa? Đã đơn thương độc mã đem súng qua Tiểu khu bắn chơi;
Chuyện ông Thiếu úy Hoàng nhậu đả trong nhà một người Thượng, cởi hết
áo quần ra, trần truồng nằm trên chõng, không còn biết trời trăng, mây
nước; Chuyện ông Thiếu tá Phi, trưởng phòng 4 Tiểu khu mê gái quán Mây
Hồng bắn đại úy Đãnh, Chủ sự Phòng Cảnh sát bị thương rồi kê súng vào
màng tang “đoành” một cái, chết tức thì; Chuyện mấy anh lính Cảnh sát Dã
chiến Ngữ Lùn, Mười Sủi, K’lanh thử súng M.79, K.54, M.16 đùng đùng
hoài; Chuyện Đức ròm, buồn trời hiu quạnh, lấy dao “phụp” hai ngón tay,
gói lại làm kỷ niệm; Chuyện Thượng sĩ già Nguyễn văn Thọ muốn đi phép
thì, lấy súng bắn chỉ thiên, khóc như con nít, lăn lóc dưới đất: Chuyện
ông thầy thuốc Bắc tên Bảy Trí, Bí thư Nhân xã Cánh mạng Đảng ghét cay
ghét đắng Thiếu úy Lu đã bắt ông ta, lập biên bản có liên hệ với Cộng
sản mà ác cảm với Cảnh sát. Thiếu úy Lu sau nầy lên Đại úy, làm Chỉ huy
trưởng Quận Kiến đức, chạy nhanh hơn ai hết khi Quận bi Việt cộng tấn
công làm nát bét; Chuyện Trung tá Sang chỉ hơi hơi thiếu kích thước một
chút mà những anh chàng lính hỗn hào ghi mấy giòng “Người lùn gieo máu
lửa” làm Trung tá sôi gan...bỏ qua, vì có tìm ra thủ phạm đâu mà sát
thủ. Cho nên, ở đâu cũng có cái sự đời rắc rối. Mỗi địa phương có những
cái khác nhau. Tựu chung đều nhiêu khê, đa đoan mà chúng ta, những người
có trách nhiệm phải giải quyết và đã giải quyết một cách xuôi chèo mát
mái. Những người anh em Học viện Cảnh sát Quốc gia không hổ thẹn xuất
thân từ một lò đào tạo nhân tài. Họ là những người trai trẻ, học thức,
nhiệt tình và tinh thần Tổ quốc, Công minh, Liêm chính. Ngồi đây không
phải ôn cố tri tân mà ngồi đây viết đôi giòng chuyện xưa cũ để mình nhâm
nhi thuở một thời hiên ngang, xông pha và tiếc nuối mộng giang tay xây
dựng cơ đồ một sớm một chiều tan hoang. Người ta nói, một câu nói ngậm
ngùi, ứa lệ: “bại binh chi tướng, bất khả ngôn dũng. Vong quốc chi đại
phu, bất khả ngôn trí”. Đã là tướng bại trận thì không thể nói là tướng
mạnh. Đã là quan mất nước thì không thể nói là quan hay. Thấm thía biết
chừng nào! Bổng nhói trong lòng, tôi xuất khẩu làm thơ, bài thơ Vụn Vỡ
để nhớ thật nhiều, thương thật nhiều anh em một mái trường mẹ Học viện
Cảnh sát Quốc gia, ra đời chịu biết mấy là “tang điền thương hải”:
Đã gần một nửa trăm năm.
Ta gần Học viện, ta xa ra trường.
Chim trời bổng cánh muôn phương.
Dẫu cùng Việt quốc, dẫu gì gặp nhau?
Đứa Năm căn, đứa Cà mau,
Đứa vào Cao lảnh, đứa về Cần thơ,
Đứa ngoài Quảng trị bơ vơ,
Đứa trong Đà nẳng dật dờ tháng năm!
Ba Mươi, Tháng Tư, Bảy Lăm!
Đứa vào lao lý, đứa ra pháp trường,
Đứa chết, chết đứng giữa đường,
Đứa cùng đường, chạy tha phương xứ người,
Đứa sống như chết đi rồi,
Đứa ngồi ôm “thuở-nửa-đời-trăm-năm” ..
NGUYỄN THỪA BÌNH
No comments:
Post a Comment