Tôi muốn trình bày một số khía cạnh của cuộc chiến liên quan chủ yếu đến người dân miền Nam Việt Nam, khởi đầu bằng một số khác biệt giữa những năm đầu và những năm sau của cuộc tham dự lớn lao của Mỹ vào chiến tranh Việt Nam. Tóm gọn, những năm đầu này tính từ lúc quân bộ chiến Mỹ bắt đầu đổ vào Việt Nam năm 1965 và tiếp tục cho đến việc thay đổi chỉ huy xảy ra sau trận Mậu Thân năm 1968. Sau đó là khoảng thời gian kéo dài cho đến khi lực lượng cuối cùng của Mỹ triệt thoái vào tháng 3 năm 1973.
Vào những năm đầu với tướng William C. Westmoreland cầm quyền tư lệnh, phương thức căn bản của Mỹ là dành nắm cuộc chiến từ tay quân lực Nam Việt Nam và cố gắng thắng trên bình diện quân sự bằng một một cuộc chiến hao tổn. Lý thuyết là càng giết được nhiều địch quân càng tốt để họ mất hết ý chí và ngưng tấn công miền Nam. Thời gian đầu này cũng được thể hiện qua các đòi hỏi liên tục về gia tăng quân số gởi sang Việt Nam, đưa đến khoảng 543,400 quân vào lúc cao nhất.
Để theo đuổi kiểu chiến tranh này, tướng Westmoreland dựa vào chiến thuật “Lùng và Diệt” thực hiện bởi các đơn vị lớn, chính yếu là trong rừng sâu. Chiến thuật này có những thành công riêng của nó – trong vòng vài năm quân địch chịu những tổn thất thật khủng khiếp – nhưng kết quả mong muốn không đạt được. Trong khi đó, vì chủ quan dồn nỗ lực vào loại chiến tranh hao tổn, tướng Westmoreland đã bỏ quên hai khía cạnh quan trọng của cuộc chiến là bình định nông thôn và cải tiến cho quân lực miền Nam Việt Nam.
Sau cuộc Tổng Tấn Công của địch quân vào Tết Mậu Thân 1968, tướng Creighton W. Abrams thay thế tướng Westmoreland với cái nhìn rất khác biệt về căn bản cũng như cách giải quyết cuộc chiến. Tướng Abrams nhấn mạnh đến "một cuộc chiến " bao gồm hành quân, bình định, và cải tiến quân đội miền Nam trong đó việc bình định, và cải tiến quân đội miền Nam, từ lâu đã bị xem nhẹ, phải được đặt ngang tầm quan trọng và ưu tiên với những hoạt đông quân sự.
Những phương cách vận hành cuộc chiến cũng được thay đổi lớn lao. Thay vì "Lùng và Diệt" nay là " Quét Sạch và Giữ Vững" nghĩa là khi lưc lượng Cộng quân đã bị đánh bật ra khỏi các vùng dân cư, những vùng đó sẽ được quân bạn đặt đồn lũy trấn giữ thay vì bỏ đi để địch quân trở lại chiếm đóng về sau. Những lực lượng địa phương của miền Nam được gia tăng và đảm trách nhiệm vụ an ninh đó. Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh cho rằng "Việc gia tăng quân số và cải tiến Điạ Phương Quân và Nghĩa Quân là những đóng góp quan trọng và xuất sắc nhất của Mỹ trong cuộc chiến” Trung tướng Ngô Quang Trưởng xem những lực lượng này là “rường cột của bộ máy chiến tranh" khi nhận xét "Các thành tựu như thôn ấp được bình định, số dân sống dưới sự kiểm soát của chánh phủ VNCH hay sự thông suốt của các đường truyền tin huyết mạch đạt được là do những công lao không được nhắc đến của các lực lượng Điạ Phương Quân và Nghĩa Quân."
Bản chất của các cuộc hành quân cũng thay đổi vào những năm sau. Những cuộc tấn công ồ ạt sâu trong rừng được thay thế bằng hàng ngàn cuộc phục kích, tuần phòng của các đơn vị nhỏ, cả ngày lẫn đêm và được đặt ra để lọc dân ra khỏi địch quân. Bình định được nhấn mạnh và đặc biệt là để tận diệt hệ thống nằm vùng mà địch thường dùng để ức chế dân chúng các làng ấp miền Nam bằng bạo lực và khủng bố .
Việc đếm xác không còn là thước đo công trạng nữa. Tướng Abrams, bằng sự từ bỏ hoàn toàn phương thức trước kia, đã trình bày với các cấp chỉ huy: "Tôi không nghĩ mức tổn thất của địch quân là quan trọng. Trong tổng thể của cuộc chiến, các trận đánh không mang nhiều ý nghĩa lắm." Giờ đây nắm được dân mới là dấu hiệu quan trọng của thành công.”
Trái với điều nhiều người hình như tin tưởng, phương cách mới đã thành công một cách ngoạn mục. Và trong những năm sau đó, khi cuộc triệt thoái của Mỹ tăng dần thì càng lúc những thành công đó càng do chính những người miền Nam đạt được.
Trong thời kỳ gia tăng quân số Mỹ tại Việt Nam, nhiều nhà quan sát - gồm cả một số người Mỹ trú đóng tại Việt Nam – đã chỉ trích quân đội miền Nam Việt Nam. Nhưng những chỉ trích này ít khi nêu lên một số khía cạnh liên quan của vấn đề. Phần lớn viện trợ quân cụ của Mỹ vào những năm này là các vũ khí cổ lỗ, phế thải của Thế Chiến thứ Nhì, bao gồm các súng trường M-1 nặng nề và khó xoay sở (đối với người Việt). Trong lúc đó địch quân được quan thầy Nga Xô và Trung Cộng cung cấp cho vũ khí càng lúc càng tối tân.
"Năm 1964 địch quân đưa vào chiến trường súng AK-47, một loại súng tự động tối tân, rất hữu hiệu," Chuẩn tướng James L. Collins, Jr. trong một bản báo cáo về sự phát triển của quân đội miền Nam Việt Nam đã nhận định. "Ngược lại, lực lượng miền Nam vẫn còn được trang bị với một hổn hợp vũ khí thời Thế Chiến Thứ Nhì. Sau năm 1965 sự gia tăng quân Mỹ đã từ từ đẩy lùi các vấn đề cần thiết về vũ khí của quân đội miền Nam ra phía sau". Tướng Fred Weyand, sau khi mãn nhiệm kỳ phục vụ tại Việt Nam với chức vụ Tư Lệnh Lực Lượng Dã Chiến II, đã nhận định trong một bản báo cáo hồi nhiệm rằng "Sự trì hoãn lâu dài trong việc trang bị cho Quân Lực VNCH các vũ khí và chiến cụ tối tân, ít nhất là tương đương với những thứ đã được Nga và Trung Cộng trang bị cho địch quân, đã là yếu tố đóng góp lớn lao vào sự thiếu hiệu quả của quân đội này."
Cho đến lúc tướng Abrams đến Việt Nam với chức Tư Lệnh Phó lực lượng Mỹ vào tháng 5 năm 1967 thì quân miền Nam mới được chú ý hơn. Ngay sau khi nhậm chức, tướng Abrams đã gởi công điện về Tham Mưu Trưởng Lục Quân Mỹ, tướng Harold K. Johnson tường trình: "Tôi đã nhận thấy rất rõ rằng giới quân sự tại đây và ở quê nhà chỉ quan tâm phần lớn đến sự vận hành của quân Mỹ và việc hỗ trợ cho quân đội Mỹ. Hậu quả là những thiếu thốn về chiến cụ hay tiếp liệu quan trọng không được giải quyết nhanh chóng và ồ ạt như chúng ta làm cho quân Mỹ. Nhưng trách nhiệm của chúng ta đối với Quân Lực VNCH đã rõ ràng... công việc phải bắt đầu từ đây. Tôi đang làm việc đó."
Vào đầu năm 1968 một số súng M-16 đã được cung cấp cho lính Nhảy Dù và các đơn vị ưu tú của quân đội miền Nam Việt Nam nhưng đa số các thành phần quân đội khác vẫn còn yếu thế hơn đối phương về mặt vũ khí. Trung tướng Đồng Văn Khuyên, sĩ quan tiếp liệu cao cấp của miền Nam đã hồi tưởng "Trong trận công kích Tết Mậu Thân 1968 những tràng liên thanh dòn dã của AK-47 vang dội tại Sài Gòn và một vài thành phố khác dường như chế diễu những tiếng súng đơn độc, yếu ớt của khẩu Garand và các súng trường của quân bạn."
Mặc dù vậy, các lực lượng miền Nam đã chiến đấu đáng nể phục trong việc đẩy lui trận Tổng Công Kích của Việt Cộng. Tạp chí Time đã viết: "Trước sự ngạc nhiên của người Mỹ và sự khiếp vía của Cộng Sản, Quân lực VNCH đã chống trả thật can đảm và mãnh liệt, vượt xa sự tiên đoán của mọi người."
Vào tháng hai 1968, tướng hồi hưu Bruce C. Clarke sau một chuyến viếng thăm Việt nam, đã viết một bản tường trình về chuyến đi của ông và đã gởi đến Tổng Thống Lyndon B. Johnson. Tướng Clarke nhận định rằng "các đơn vị Việt Nam vẫn còn trong tình trạng thiếu thốn trầm trọng các chiến cụ và vũ khí. Điều này ảnh hưởng nặng nề đến tinh thần chiến đấu và tính hữu hiệu của nó. Đó là cảm nhận chung trong quân đội khi được trang bị yếu kém."
Sau khi đọc bản tường trình, Tổng Thống Johnson đã triệu ông Clarke vào tòa Bạch Ốc để thảo luận. Ông Clarke nhớ lại, "Vài ngày sau cuộc viếng thăm tòa Bạch Ốc của tôi, một phụ tá Tổng Thống đã gọi cho tôi biết Tổng thống đã xuất kho 100,000 khẩu M-16 cho Quân Lực VNCH."
Tổng Thống Johnson đã đề cập đến sự kiện này trong bài diễn văn mạnh mẽ ngày 31-3-1968. Ông hứa rằng "Chúng ta sẽ đẩy mạnh việc tái trang bị quân đội miền Nam Việt Nam để họ có thể đương đầu với hỏa lực tăng tiến của địch quân."
Các sư đoàn Mỹ không những được võ trang khá hơn mà cũng đông đảo hơn các sư đoàn của miền Nam nên có khả năng tác chiến cao hơn. Càng bất lợi cho quân miền Nam hơn là trong những năm đầu này quân Mỹ đã dành hầu hết các chiến cụ để gia tăng sự hữu hiệu cho các đơn vị của họ, bao gồm cả ưu tiên trong các phi vụ thả bom của B-52. Tướng Abrams nhận xét rằng trong cuộc Tấn Công Đợt Ba của quân Bắc Việt vào tháng 8 và 9 năm 1968, "Số địch quân bị Quân Lực VNCH tiêu diệt nhiều hơn cả tổng số tổn thất của địch do tất cả các lực lượng đồng minh cộng lại."
Trong tiến trình này, ông nói, “họ cũng bị tử vong nhiều hơn, cả do quân địch lẫn do sự bắn lầm của quân bạn". Ông nói với tướng Earle Wheeler, đó là hệ quả của sự kiện "quân đội miền Nam tương đối ít được hỗ trợ cả về phẩm lẫn lượng hơn quân đội Mỹ như về pháo binh, không yểm chiến thuật, trực thăng chiến đấu và trực thăng vận."
Dưới những điều kiện đó trong những năm đầu, việc chỉ trích các đơn vị quân miền Nam Việt Nam là điều dễ dàng. Chỉ được cho tham gia ít ỏi, hỏa lực thua kém địch quân và bị giao cho những vai trò lúc đó được xem là phụ thuộc, quân đội miền Nam Việt Nam đã thiệt thòi vài năm trong việc phát triển và kinh nghiệm chiến trường mà đáng lẽ đã giúp họ gia tăng khả năng chiến đấu đáng kể.
Vào những năm sau trong cuộc tham dự của người Mỹ, lúc mà lực lượng bộ chiến Mỹ tăng gia rút quân, ưu tiên phân phát súng M-16 mới được dành cho các lực lượng địa phương đã bị bỏ quên của miền Nam. Họ là thành phần của "Giữ Vững" trong chiến thuật "Quét Sạch và Giữ Vững." Khi những lực lượng này càng lúc càng kiểm soát được nhiều lãnh thổ, một số đông đảo Việt Cộng đã hồi chánh sang phía đồng minh. Cao điểm là năm 1969 với 47,000 và năm 1970 với 32,000. Chỉ trong hai năm đó, nếu tính theo quân số 8,689 người của một sư đoàn quân Bắc Việt thì các con số mất mát do hồi chánh trên tương đương với chín sư đoàn.
Đó là lúc mà cuộc chiến tranh được coi như đang thắng thế. Giao tranh vẫn chưa ngừng nhưng cuộc chiến được coi như thắng lợi. Lý do là người miền Nam đã có được khả năng, với sự yểm trợ như được hứa hẹn của Mỹ, để gìn giữ được độc lập và tự do hành động. Đây là một thành quả của miền Nam Việt Nam.
Lý do chính yếu của thành quả này là việc tiêu diệt cơ sở nằm vùng của địch tại các làng ấp xa xôi miền Nam. Một chiến dịch hữu hiệu đã được phát triển để vô hiệu hóa các nhóm nằm vùng này bằng cách thu thập và xử dụng hữu hiệu và chính xác hơn các tin tức tình báo. Những người chỉ trích cuộc chiến tố cáo Chiến Dịch Phượng Hoàng là một chiến dịch ám sát nhưng sự thực thì ngược lại.
Một điều thực tế là những tù binh hiểu biết về căn cứ và hoạt động của địch đều là những nguồn tình báo vô giá. Đó là một yếu tố đáng kể để khuyến khích việc bắt sống và khai thác họ. Các viên chức điều tra do Quốc Hội gởi sang để thẩm định Chiến Dịch đã nhận định rằng trong số 15,000 tên Việt Cộng nằm vùng bị vô hiệu hóa trong năm 1968, chỉ có 15% bị giết, 13% quy chánh, và 72% bị bắt. William Colby, người điều hợp Chiến Dịch Phượng Hoàng lúc bấy giờ và được bổ nhiệm làm giám đốc CIA năm 1973, sau đó đã điều trần rằng "Đại đa số những tên địch bị giết trong những cuộc giao tranh bình thường" như báo cáo của các đơn vị đụng độ đã cho thấy.
Trong thời gian này miền Nam Việt Nam, ngoài việc phải nhận lãnh trách nhiệm chiến đấu từ những người Mỹ đang triệt thoái, còn phải đương đầu với nhiều thay đổi trong chánh sách. Tướng Abrams đã rất rõ ràng về việc miền Nam bị đòi hỏi phải càng lúc càng nhảy vượt cao hơn. Ông nhớ lại: "Chúng ta bắt đầu từ 1968, dự trù đến năm 1974 ta sẽ giúp họ đánh tan được bọn Việt Cộng. Rồi họ đã chuyển mục tiêu, đánh cả Việt Cộng lẫn quân Bắc Việt - tại miền Nam. Rồi họ lại co ép nó. Họ co ép nó khoảng ba lần hay bốn lần – tăng tốc. Vậy công việc chúng ta bắt đầu để xong trong thời gian như thế này" ông diễn tả bằng tay một thời gian dài "nay sẽ phải xong trong một thời gian thế này" - thật ngắn hơn nhiều. Một trong những thay đổi chánh sách quan trọng nhất là việc loại bỏ dự án duy trì một số quân Mỹ ở lại vô thời hạn tại miền Nam theo như cách đã làm tại Tây Âu và Nam Hàn.
Vào tháng giêng 1972, John Paul Vann, một viên chức cao cấp trong việc hỗ trợ bình định đã nói với bạn bè: "Hiện nay chúng ta đang ở mức độ giao tranh thấp nhất chưa từng thấy. Ngày nay khắp vùng quê miền Nam mang một bầu không khí đầy hứa hẹn, và đó là điều không thể chối cãi được. Giờ đây đường xá được mở ra, cầu cống được xây dựng, và khi di chuyển trên bất cứ con lộ nào tại miền Nam bạn còn gặp nguy hiểm vì xe Honda và Lambretta nhiều hơn là vì Việt Cộng" Và ông Vann nói thêm: "Chương trình Việt Nam hóa này đã thành công hơn cả mọi tưởng tượng của tôi" Đó là các thành tựu của người miền Nam. Vào cuối tháng 3 -1972 quân Bắc Việt mở một cuộc xâm lăng quy ước vào miền Nam bằng một lực lượng tương đương với 20 sư đoàn, và một trận chiến đẫm máu đã diễn ra sau đó. Douglas Pike viết: "Chiến dịch được trù định kỹ càng" của địch đã bị đánh bại vì không lực đã cản trở được các cuộc tập trung quân và nhờ sự phòng thủ cương quyết, có thể nói là anh hùng của quân miền Nam. Quân Bắc Việt cùng các hệ thống vận chuyển và truyền tin của họ đã bị giáng cho những đòn khủng khiếp" Nhưng quan trọng hơn hết, ông Pike nói, "Quân Lực VNCH và ngay cả các lực lượng địa phương đã đứng lên chiến đấu như chưa từng thấy."
Sau đó những người chỉ trích nói rằng miền Nam đẩy lui được quân xâm lược chỉ nhờ không yểm của Mỹ. Tướng Abrams đã trả lời một cách mạnh mẽ cho điều đó. Ông nói với các tư lệnh của ông, "Tôi đồng ý rằng điều này không thể thực hiện được nếu không có không yểm của Mỹ, nhưng việc đầu tiên là người Việt Nam, một số nào đó của họ phải đứng lên chiến đấu. Nếu họ không làm điều đó thì dù chúng ta có gấp mười lần không yểm cũng không thể ngăn chân được quân Bắc Việt."
Những người chỉ trích cũng đã chê bai quân lực miền Nam vì họ cần sự giúp đỡ của Mỹ đề chiến thắng. Nhưng cùng lúc đó, chừng 300,000 quân Mỹ đồn trú tại Tây Đức chính vì Khối Minh Ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) không thể chống giữ được lực lượng xâm lăng của Nga Xô hay Khối Warsaw nếu không có sự giúp đỡ của Mỹ. Và tại Nam Hàn có 50,000 quân Mỹ trú đóng chính là để giúp quốc gia này đương đầu với bất cứ cuộc tấn công nào từ miền Bắc.
Miền Nam Việt Nam, bằng lòng can đảm và xương máu, đã đánh bại cuộc tấn công của địch quân vào Mùa Hè Đỏ Lửa 1972. Tướng Abrams nói với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu rằng chính "sự hữu hiệu của các cấp chỉ huy chiến trường định đoạt kết quả." và họ đã chứng tỏ xứng đáng với thừ thách. Lực lượng phòng thủ miền Nam đã gây cho quân xâm lăng những tổn thất nặng nề đến độ phải mất ba năm Bắc Việt mới có thể thực hiện một cuộc tấn công mới. Lúc đó đã có những thay đồi bi đát trên bình diện to lớn hơn.
Sau khi Hiệp Định Paris đưọc ký kết vào tháng Giêng 1973 ép buộc miền Nam Việt Nam phải đồng ý với những điều khoản mà họ xem như bản án tử hình (Bắc Việt được phép duy trì một lực lượng to lớn tại miền Nam), Tổng thống Richard M. Nixon đã nói với ông Thiệu rằng nếu miền Bắc vi phạm hiệp ước và trở lại xâm lược miền Nam, Mỹ sẽ can thiệp quân sự để trừng phạt họ. Ngoài ra, Nixon còn nói là nếu chiến tranh tái diễn, Mỹ sẽ thay thế, như Hiệp Định Paris cho phép, trên căn bản "một đổi một" bất cứ quân cụ quan trọng nào (xe tăng, đại bác v.v) mà miền Nam bị mất mát. Và cuối cùng, Nixon tuyên bố, Mỹ sẽ tiếp tục đẩy mạnh việc viện trợ tài chánh cho miền Nam. Nhưng dĩ nhiên, kết quả đã cho thấy, Mỹ nuốt cả ba điều hứa hẹn.
Trong khi đó Bắc Việt nhận được từ quan thầy của họ những mức viện trợ nhiều chưa từng có. Theo một sử liệu ấn hành vào năm 1994 tại Hà Nội, trong chín tháng sau Hiệp định Paris từ tháng 1 đến tháng 9 năm 1973, số lượng tiếp tế từ miền Bắc cho các lực lượng của họ trong Nam nhiều gấp bốn lần số tiếp tế trong cả năm trước đó. Nhưng nó vẫn là một con số nhỏ nhoi so với những gì đã được họ gởi xuống miền Nam từ đầu 1974 cho đến lúc chiến tranh tàn cuộc vào tháng Tư 1975. Theo báo cáo của những người Cộng Sản, tổng số tiếp tế trong 16 tháng đó là gấp 2.6 lần số lượng cung cấp cho các chiến trường trong 13 năm trước.
Nếu miền Nam từ chối Hiệp Định Paris thì chắc chắn rằng chẳng những Mỹ sẽ giải quyết không cần họ mà Quốc Hội Mỹ cũng sẽ nhanh chóng cắt viện trợ cho miền Nam. Mặt khác, nếu miền Nam chịu nghe theo với hy vọng sẽ tiếp tục được nhận viện trợ Mỹ thì họ bị buộc phải chấp nhận một hệ quả là quân Bắc Việt lưu lại đầy đe dọa trong vùng biên giới của họ. Với tiên đoán tang tóc đó, miền Nam đã chọn con đường thứ hai, để rồi nhận ra một cách hãi hùng rằng họ phải gánh chịu cả hai điều tệ hại nhất: Quân Bắc Việt được trú đóng tại miền Nam và viện trơ Mỹ bị cắt đứt.
Nhiều người Mỹ không thích nghe rằng các xứ độc tài toàn trị như Trung Cộng và Nga Xô đã chứng tỏ họ là những đồng minh tốt và trung thành hơn đất nước dân chủ Mỹ, nhưng sự thật là vậy. William Touhy, người đã nhiều năm viết về chiến tranh cho báo The Washington Post đã viết "gần như không thể tưởng và chắc chắn không thể tha thứ được rằng một quốc gia vĩ đại lại bỏ mặc những đồng minh tuyệt vọng này cho lòng thương hại của miền Bắc". Nhưng chúng ta đã làm như vậy.
Đại tá William Le Gro phục vụ tại Phòng Tham Vụ Quốc Phòng tại Sài Gòn cho đến khi cuộc chiến chấm dứt. Từ vị thế thuận lợi đó ông đã nhìn thấy rõ ràng những điều đã xảy ra. Ông quan sát: "Sự giảm thiểu hỗ trợ đến mức gần con số không của Mỹ là nguyên nhân của sự sụp đổ sau cùng. Chúng ta đã đối xử thật tồi tệ với nhân dân miền Nam."
Gần cuối cuộc chiến, Tom Polgar, lúc đó là trưởng nhiệm sở CIA tại Sài Gòn đã gởi một công điện ngắn gọn thẩm định tình hình: "Không còn gì phải nghi ngờ về kết quả chung cuộc vì miền Nam Việt Nam không thể tồn tại nếu không có viện trợ quân sự của Mỹ trong khi khả năng chiến tranh của miền Bắc không hề suy xuyển và được hỗ trợ bởi Nga Xô và Trung Cộng."
Thời hậu chiến tại Việt Nam u tối như người ta đã lo sợ. Vào năm 2000, Seth Mydans đã viết một cách đầy thảm hại về những vấn đề Đông Nam Á cho báo The New York Times: "Sau chiến tranh, hơn một triệu người miền Nam đã bỏ nước ra đi. Khoảng 400,000 bị giam trong các trại "cải tạo." Nhiều người chỉ bị giam ngắn hạn nhưng một số khác đã bị giam giữ lâu đến 17 năm. Một triệu rưỡi người bị cưỡng bách đến định cư tại những "vùng kinh tế mới" nằm giữa những nơi hoang sơ, nghèo đói cùng cực của miền Nam."
Vào năm 1990, cựu Đại Tá Việt Cộng Phạm Xuân Ẩn đã diễn tả nỗi thất vọng tràn trề về cái mà cuộc chiến thắng của phe Cộng Sản đã đem đến cho Việt Nam. Ông ta than thở rắng: "Tất cả những lời nói về giải phóng trong "hai mươi, ba mươi, bốn mươi năm qua" sản xuất ra được cái này, cái xứ sở nghèo nàn, rách nát bị cai trị bởi một bọn lý thuyết gia ít học, tàn bạo và độc đoán." Cựu Đại tá quân đội miền Bắc Bùi Tín cũng thẳng thắn về kết quả của cuộc chiến, ngay cả với kẻ chiến thắng. Ông nói: " Nó đã quá trễ đối với thế hệ của tôi, thế hệ của chiến tranh, của chiến thắng và của phản bội. Chúng tôi đã thắng. Chúng tôi cũng đã thua."
Cái giá mà dân miền Nam phải trả cho cuộc chiến đấu cho tự do của họ thật đau thương. Quân đội miền Nam bị tổn thất 275,000 tử trận. 465,000 thường dân mất mạng, nhiều người trong số này bị bọn khủng bố Việt Cộng giết hay tử vong do những cuộc pháo kích của địch quân vào thành phố và 935,000 người nữa đã bị thương.
Trong số hàng triệu người trở thành "thuyền nhân," một con số không rõ đã bỏ mạng trên biển cả từ 1975 đến 1979. Theo ông Michael MacKellar của Bộ Di Dân Úc Đại Lợi, con số này có thể trên 100,000. Tại Việt Nam có lẽ 65,000 người đã bị xử tử bởi bọn người tự xưng giải phóng. Khoảng 250,000 người nữa đã chết trong những "trại cải tạo" dã man. Trong lúc đó hai triệu người rời xứ sở đã lập ra một cộng đồng Việt Nam mới.
Nhiều người trong số này hiện sinh sống tại Mỹ. Gần đây, ông Mydans đã tới thăm vùng "Tiểu Sài Gòn" quanh thành phố Westminster, tiểu bang California, nơi quy tụ khoảng 3,000 doanh nghiệp, và ông đã diễn tả một quang cảnh náo nhiệt và trù phú. Ông phát biểu “Đó lẽ ra là quang cảnh của Sài Gòn nếu người Mỹ thắng cuộc chiến Việt Nam vào năm 1975." Và kết luận, "Không ai năng động hơn người di dân Việt Nam."
Khi vận động tại Westminster trong cuộc tranh cử Tổng Thống, Thượng nghị sĩ John McCain đã nói với đám đông người Việt, "Tôi cám ơn các bạn về những gì các bạn đã làm cho nước Mỹ." Người Việt lưu vong tại Mỹ cũng không quên những người còn ở lại Việt Nam. Mỗi năm họ gởi về khoảng 2 tỷ đô la.
Những điều này không dễ dàng gì cho những người đến Mỹ. Nguyễn Quí Đức đã viết trên báo Boston Globe vào năm 2000 rằng, “Là người Việt lưu vong, những ký ức đau thương của chiến tranh sẽ vẫn ở mãi trong tim chúng tôi." Nhưng ông ta thêm rằng, "Những khác biệt văn hóa và nỗi nhớ quê hương luôn dằn vặt chúng tôi là những giá xứng đáng để được tự do."
Để kết luận, cuộc chiến tại Việt Nam là một cuộc chiến chính nghĩa Người dân miền Nam và đổng minh của họ đã chiến đấu cho một mục đích cao đẹp. Họ đã chiến đấu hết sức mình và họ đã tiến rất gần đến thành công trong mục đích giữ cho miền Nam Việt Nam được tự do và độc lập.
Có một lần một ký giả nói rằng tướng Abrams xứng đáng cho một cuộc chiến khá hơn. Tôi kể lại điều này cho người con trưởng của ông. Ông này đã lập tức đáp lại: "Cha tôi không nghĩ như vậy. Ông nghĩ là dân miền Nam xứng đáng cho ông chiến đấu."
Lewis Sorley
Reassessing ARVN
Vietnam Magazine, số tháng Tư 2003.
Minh Huy lược dịch
No comments:
Post a Comment